Duy Biểu Học – Chương 1. Thức Thứ Tám (Tàng Thức) – Kệ 8. Ba Cảnh - Mười Tám Giới

Duy Biểu Học – Chương 1. Thức Thứ Tám (Tàng Thức) – Kệ 8. Ba Cảnh - Mười Tám Giới

Price:

Read more

Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã

Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.


Giảng Luận Duy Biểu Học

Biết Rõ Sự Vận Hành Của Tâm


Chương 1. Thức Thứ Tám (Tàng Thức)

Bài Kệ 8. Ba Cảnh, Mười Tám GIới







Nghe hoặc Tải MP3 Tác Phẩm 'Duy Biểu Học' ê


Biểu biệt A-lại-gia

Là thế giới tánh cảnh

Độc ảnh và đới chất

Mười tám giới hình thành.

“The manifestation of Alaya, could be perceived as the field of things in themselves, as that of representations and of mere images. All are included in the eighteen realms of beings.”

Hai chữ biểu biệt nó có nghĩa là thức. Biểu có nghĩa là biểu hiện ra. Biệt là nhận thức. Và thức có hai công dụng đó. Một là làm biểu hiện ra và hai là phân biệt nhận thức. Biểu hiện ra thì cố nhiên là hai phần, phần thứ nhất là chủ thể nhận thức và phần thứ hai là đối tượng nhận thức, (subject of cognition and object of cognition). Biểu biệt. Vậy thì A-lại-gia tức là tàng thức nó biểu hiện ra những cái nào. Đứng về đối tượng nhận thức thì ta nhận thấy nó có ba loại đối tượng của tất cả nhận thức. Tại vì nhận thức nó có nhiều loại. Thường thường khi mà chúng ta nói đến nhận thức, chúng ta nghĩ tớí ý thức mà thôi. Nhưng ý thức là một trong những tác dụng của thức mà thôi. Ta biết rằng vai trò đầu tiên của thức là duy trì thế giới, duy trì sinh mạng của mình. Duy trì các hạt giống đang nằm trong tâm thức của mình. Nói như vậy để ta nhớ rằng tâm thức có nhiều tác dụng, có nhiều chức năng và chức năng tri giác chỉ là một chức năng của thức mà thôi.

Ở đây ta đang nói tới chức năng biểu hiện của thức. Thì thức A-lại-gia cá nhân cũng như cộng đồng, nó biểu hiện ra làm ba loại đối tượng gọi là cảnh. Cảnh là đối tượng của nhận thức (tiếng Phạn là visaya). Có khi chúng ta nói là đối tượng nhận thức (danh từ mới, danh từ triết học Tây phương). Có khi chúng ta gọi nó là tướng, tướng phần (nimitta bhaga) tức là đối tượng nhận thức. Nó ngược lại với cái kiến phần tức là chủ thể nhận thức. Có khi chúng ta gọi là sở duyên, (alambhaga) sở duyên là đối tượng của tâm thức, duyên ở đây tức là nhận thức. Nó ngược lại với danh từ năng duyên là phần chủ thể. Trong Duy Biểu học nói rằng thức căn bản của ta là A-lại-gia nó biểu hiện ra bằng ba đối tượng nhận thức, có khi đạt tới đối tượng này có khi đạt tới đối tượng kia. Đó là nội dung của bài kệ.

Thứ nhất là thế giới tánh cảnh tức là tự thân của thế giới, tự thân của thực tại (la chose en soi, thing in itself, danh từ của Kant). Tánh tức là bản chất của nó. Thế giới tánh cảnh. Cảnh này từ chữ visaya mà ra. Tánh cảnh là thực tại trong cái tự thân của nó mà có khi chúng ta không thể đạt được. Ví dụ như núi Pyrénées nó có tự thân của nó, cái tánh cảnh của núi Pyrénées. Còn cái hiểu biết, cái tri giác của ta về núi Pyrénées có thể rất sai lầm. Có thể là không dính dáng gì với tự thân của núi Pyrénées cả. Cái nhận thức của ta không có đạt tới tánh cảnh. Ví dụ mình thương một hay ghét một người, đối tượng của cái thương hay cái ghét của mình không hẳn là tự thân của người đó. Cái tâm thức của mình nó biểu hiện ra một đối tượng và mình thương đối tượng đó. Ví dụ mình, là ông B yêu một người có tên là cô A, cái tự thân của cô A và tạo ra trong tâm thức của ông một hình ảnh của cô A chứ không hẳn là ông thương cái thực tại cô A. Cũng như mình chụp hình, đưa cái máy như vầy và cái máy của mình nó biến hiện ra một cái hình riêng trên phim hình và mình chụp cái hình riêng đó. Mình không chụp được cái thực tại của người đó, mình chỉ chụp được cái hình người đó thôi. Khi mình yêu hay mình ghét thì mình tạo ra một hình ảnh về người kia để mình yêu hay mình ghét. Đối tượng yêu, ghét của mình đôi khi nó không dính dáng gì đến thực tại của người kia hết. Ví dụ như khi có người la ó, nói xấu Thầy Nhất Hạnh là thế này, thế kia thì việc nói xấu không dính dáng gì đến thực tại của Thầy Nhất Hạnh cả. Tại vì trong cái nhận thức của mình, có những cái tưởng tượng, cái sáng tạo sai lầm về tâm thức. Ví dụ như khi mình yêu thì người kia trở thành rất đẹp, rất tuyệt vời. Và hình ảnh đối tượng của tình yêu của mình thường rất xa vời. Nhưng khi cưới người đó rồi, ở vài ba năm thì biết đối tượng, cái hình ảnh mà mình ôm ấp mong nhớ, mình không ngủ được để mà mình nghĩ tới, là hình ảnh do mình sáng tạo đến chín mươi phần trăm. Cho nên cái tánh cảnh (la chose en soi) mình không đạt được. Tâm thức mình, nó nương theo tánh cảnh mà tạo ra một hình ảnh khác về thực tại đó và cho đó là thực tại.

Và cái hình ảnh kia, cái hình ảnh méo mó về thực tại kia là một thứ cảnh khác gọi là đới chất cảnh. Tức là cảnh giới mang theo một chút bản chất của tánh cảnh nhưng nó không là tánh cảnh. Người mà mình yêu hay ghét đó không phải là người có thực ở trong cuộc sống mà là cái người do mình sáng tạo ra. Đó là đới chất cảnh. Thi sĩ Hàn Mặc Tử yêu cô nào đó, nhưng không được cô ấy yêu lại, rất đau khổ nhưng không bỏ được cô đó. Cho nên ông nghĩ rằng nếu mình giết được hình bóng cô trong người mình thì mình sẽ được giải thoát. “Làm sao giết được người trong mộng.” Tại vì hình bóng của người trong mộng nó cứ đi theo mình như một bóng ma. Giết người trong mộng chắc không bị tù đâu, vì người trong mộng là đới chất cảnh, khi nào giết tánh cảnh thì bị ở tù liền. Nếu có hình ảnh người nào đó trong người mà mình giết hình ảnh đó thì mình buông bỏ được và sẽ được giải thoát.

Những nhận thức của chúng ta những ước mơ, những thù hận của chúng ta đều có những đối tượng đới chất cảnh rất nhiều. Chúng ta thù ghét, chúng ta mê đắm những hình ảnh mà chúng ta tự tạo trong tâm chứ chúng ta không thì ghét và mê đắm cái thế giới thực tại.

Cứ nghĩ đi, quý vị nghĩ là quý vị biết núi Pyrénées, có thể là quý vị thấy vài cái hình, có thể là quý vị leo núi vài giờ đồng hồ. Thật ra núi Pyrénées nó giàu có hơn nhiều. Chính cái bản thân của chúng ta mà chúng ta chưa đạt tới nữa.

Thiền quán là nhìn sâu, nhìn kỹ để đạt tới cái thực tại. Thực tại trước hết là thực tại bản thân và kế đến là thực tại của thế giới và trong quá trình đó mình phải buông bỏ những hình bóng của tâm mình tạo tác. Ví dụ mình nghe những tên như Mao Trạch Đông hay công trường Concorde. Khi nghe danh từ đó thì trong tâm thức mình hiện ra những hình ảnh. Những hình ảnh mình cho là đối tượng nhận thức của mình, nhưng những đối tượng đó, phần lớn là những cái đó là do tâm thức của mình nương vào cái đó để tạo dựng ra chứ không phải là tự thân của thực tại. Rất là nguy hiểm.


Trong đời sống hàng ngày của mình nếu mình sống có chánh niệm thì mới cảnh giác được. Cái người mình thương và người mình ghét chưa chắc là mình đã thực sự ghét hay thật sự thương cái bản thân của người đó. Có thể mình chỉ ghét hay chỉ thương cái hình ảnh của người đó mà mình tạo ra. Đôi khi mình mang tâm niệm hận thù trong suốt ba bốn mươi năm mà mình chỉ hận thù cái hình ảnh do mình tạo ra mà thôi.



Vì vậy cho nên trong ánh sáng của Duy Biểu học, chúng ta sống trong thế giới của đới chất cảnh nhiều hơn thế giới của tánh cảnh. Tâm thức của chúng ta không có đạt tới thực tại, chúng ta biến chế ra một hình ảnh mà chúng ta gọi là thế giới thực tại và chúng ta giam hảm chúng ta trong thế giới đó. Ví như cụ Nguyễn Du nói: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” Cụ nói rằng thế giới trong đó mình sống là do cái tâm thức mình tạo ra. Khi tâm hồn của mình nó đen tối và u buồn thì mình thấy cái gì cũng đen tối và u buồn hết. Và cái thế giới mà mình thấy là thế giới của thực tại. Đó là thế giới do tâm mình tạo tác.

Và thế giới thứ ba là Thế giới độc ảnh. Thế giới này chỉ cái hình ảnh thôi, không theo cái chất liệu gì cả. Ví dụ khi ta nhìn vào tờ giấy này ta tin chắc là ta thấy được thế giới tánh cảnh, là ta nhận thấy được cái tự thân của tờ giấy. Nhưng mà có thể nói rằng tờ giấy này chỉ đạt tới thế giới của đới chất cảnh mà thôi. Thường thường là như vậy. Tâm thức chúng ta nó nương vào thế giới tánh cảnh và nó tạo ra thế giới đới chất cảnh. Như ta sống ba mươi năm với một người mà có thể có những sự thật về người đó mình không nắm được. Không phải chỉ mới bắt đầu mới gặp người đó, mình không có hình hảnh chính xác về người đó. Có thể sau khi sống hai ba mươi năm mình vẫn chưa nắm được thực tại của người đó. Đôi khi người đó thương mình mà mình cứ tưởng người đó ghét mình. Đôi khi người đó không bao giờ có chủ tâm muốn tiêu diệt mình mà mình cứ nghĩ là người đó muốn làm tình làm tội mình. Tất cả những cái đó là những sáng tạo của tâm thức và tất cả những cái mà mình ôm ấp giận hờn, mình ăn thua đủ đó chỉ là đới chất cảnh chứ không phải là tánh cảnh. Thành ra chúng ta hãy nhìn lên, nhìn ra, nhìn xung quanh ta: trời xanh kia, mây trắng kia, những trái núi kia, những người có mặt xung quanh kia, những con chim kia mà chúng ta tin rằng thuộc về thế giới của tánh cảnh, chúng có thể chỉ thuộc về thế giới đới chất cảnh mà thôi.

Thành ra tôi ngồi đây uống trà với anh, anh ngồi đó anh có thể chỉ là nằm trong thế giới đới chất của tâm thức tôi mà thôi, vậy mà tôi cứ tưởng là anh thuộc về thế giới của tánh cảnh, anh thuộc về thế giới hoàn toàn khách quan. Thật ra là tôi đã tạo ra anh.

Ví dụ như Bụt chẳng hạn. Bụt trong chúng ta thuộc về thế giới đới chất hay tánh cảnh? Chúng ta đạt tới con người đích thực của Bụt chưa? Hay là chúng ta chỉ sáng tạo ra được một hình ảnh của Bụt bằng một số tài liệu mà ta gom góp được trong kinh điển hay trong những điều mà người ta nó. Có thể hình ảnh của Bụt mà ta có có thể gần với Bụt tự thân hơn là hình ảnh khác của Bụt mà ta có trước đây năm mười năm. Tuy nhiên hình ảnh mới nhất này của Bụt vẫn còn mang tính chất đới chất như thường. Và do công trình tu tập và quán chiếu của chúng ta mà ngày càng hình ảnh đới chất đó nó càng đi sát với thực tại tánh cảnh của Bụt. Đôi khi ta có những hình ảnh về Bụt về Cha ta, Mẹ ta, về anh em ta, về đồng bào của ta những sự vật đang bao quanh ta và ta sống trong thế giới của đới chất cảnh mà ta cứ đinh ninh là ta sống trong trong tánh cảnh, của thực tại tự thân. (Le monde en soi). Tôi ngồi uống trà với anh, tôi thở và tôi mĩm cười nghĩ rằng hình ảnh của anh có thể chỉ là hình ảnh của thế giới đới chất và đêm đó tôi nằm mơ và thấy tôi tiếp tục uống trà với anh. Thì ra hình ảnh trong giấc mơ của tôi về anh là hình ảnh trong thế giới độc ảnh. Nó không còn là đới chất nữa. Trong giấc mơ ta thấy những người thân, những người lạ, những chuyện vui những chuyện buồn.

Thế giới trong mộng là thế giới độc ảnh. Ban đêm chúng ta nằm mơ, chúng ta cũng khóc, cũng cười, cũng giận, cũng sợ, cũng vui, vững tin rằng những cái đó có thật cho tới khi chúng ta thức dậy thì ta mới biết thế giới mà chúng ta đi qua là thế giới của độc ảnh. Nhưng không phải chúng ta chỉ tiếp xúc với thế giới độc ảnh khi ta nằm mơ. Đôi khi chúng ta thức cũng vậy. Nếu chúng ta nhắm mắt lại và hình dung hình ảnh của một người mà ta gặp cách đây hai mươi năm. Hình ảnh người đó thuộc về thế giới độc ảnh. Ta không đang ngồi uống trà với người đó. Ta chỉ hình dung người đó thôi. Hình ảnh người đó hiển hiện trong ta thuộc về thế giới độc ảnh. Vậy thì thức A-lại-gia của chúng ta có rất nhiều hạt giống, trong đó có hạt giống của đối tượng nhận thức.

Thế giới tánh cảnh, thế giới đới chất cảnh và thế giới độc ảnh cảnh cũng phát hiện từ thức A-lại-gia. Ví dụ ta nhắm mắt lại và hình dung ra tháp Eiffel ở Paris thì hình ảnh Eiffel trong ta là độc ảnh. Còn nếu ta lên Paris đứng trước tháp Eiffel thì trong ta có lúc đó có Eiffel của thế giới đới chất. Còn tánh cảnh của tháp Eiffel thì chưa chắc ta sờ mó được. Nhưng điều mà ta biết hình ảnh đới chất có nương tựa vay mượn từ thế giới tánh cảnh. Thành ra những cái yêu ghét của mình thường là đối tượng của đới chất hay độc ảnh.

Mười tám giới hình thành. Mười tám giới là gồm ba cặp sáu: mắt (nhãn căn), tai (nhĩ căn), mũi (tỉ căn), lưỡi (thiệt căn), thân (thân căn), ý (ý căn), gọi là sáu căn cứ để phát sinh ra nhận thức và sáu trần là sáu loại đối tượng của sáu căn kia là: hình sắc, âm thanh, hương, vị, xúc và pháp. Đó là mười hai cái gọi là thập nhị xứ (ayatana). Khi mắt tiếp xúc với sắc, nó phát khởi ra tác dụng nhận thức mà ta gọi là cái thấy hoặc cái nhận thức, cái nghe (nhĩ thức), cái ngửi (tỉ thức), cái nếm (thiệt thức), cái chạm (thân thức), và cái biết (ý thức). Pháp ở đây là đối tượng của ý (manas). Đối tượng của ý (manas) là pháp (dharmas) mà pháp tức là dharmas nó nằm trong ba thế giới này: thế giới tánh cảnh (vật tự thân), thế giới đới chất cảnh (thế giới biến hiện do tâm thức) và thế giới độc ảnh (thế giới của những hình ảnh thuần túy). Tất cả là mười tám giới. Thập bát giới tức là mười tám lĩnh vực của hiện hữu. Khi có người khách tới hỏi Bụt thế giới là gì, thế nào gọi là tất cả mọi sự vật? Bụt trả lời tất cả mọi vật nó gồm trong mười tám giới: sáu căn, sáu trần và sáu thức. Ngoài ra nó không còn gì cả. Thành ra mười tám giới, nó gồm tất cả những lãnh vực của hiện hữu. Nó biểu hiện từ tâm thức của chúng ta, tâm thức cá nhân và tâm thức cộng đồng.

Khoa học cho chúng ta vài dữ kiện để chúng ta lay đỗ những nhận thức quá ngây thơ của chúng ta. Ví dụ như là khi khoa học nói với chúng ta về vật chất và năng lượng (matters and energy). Khoa học nói vật chất là sự cô đọng của năng lượng và năng lượng là sự pha loãng của vật chất. Vật chất và năng lượng là hai cái cùng một bản chất. Khi đặc thì nó là vật chất, khi loãng nó là năng lượng và năng lượng là sự pha loãng của vật chất. Kỳ trước mình học rồi. Thành ra ta thấy vật chất và năng lượng là hai cái cùng một bản chất. Khi đặc thì nó là vật chất, khi loãng nó là năng lượng. Một gram vật chất mà biến thành năng lượng thì nó có thể dời sông lấp biển được. Ví dụ như một gram uranium khi mà biến thành năng lượng nguyên tử thì có thể ghê gớm lắm.

Và năng lượng có thể biến thành vật chất. Ví dụ như ánh sáng mặt trời là năng lượng. Nó biến thành ra cải, lúa gạo, lúa mì… Tất cả những thực phẩm chúng ta ăn mỗi ngày đều do năng lượng mặt trời làm ra cả. Tất cả mọi loài chúng sanh trên trái đất đều tiêu thụ mặt trời như thực phẩm. Cây cối mọc lên là nhờ mặt trời. Nếu không có cây cỏ thì các loài thú vật không có thức ăn. Trâu bò ăn cỏ, con người cũng ăn rau cỏ nhưng ăn luôn thú vật đã ăn những thực phẩm đó. Khi ta chỉ ăn thịt bò, heo thôi thì chúng ta cũng ăn cây cỏ như thường và cũng ăn mặt trời như thường. Vì vậy cho nên, có một sự thật mà ta cần biết là mỗi loài sinh vật trên trái đất đều ăn năng lượng mặt trời.

Mặt trời là Cha. Cha đi làm về nuôi con và trái đất là Mẹ, sinh ra con, tất cả sinh vật trên mặt đất. Mặt trời là một khối lửa, một khối vật chất vĩ đại, và cái khối vật chất đó mỗi ngày được đem ra pha loãng (là sức nóng và ánh sáng) để nuôi muôn loại. Khi chúng ta có một ý niệm về vật chất và năng lượng thì ta thấy cái thương. Cái cây dùng làm bàn để cất nhà. Một cục đá có thể dùng làm một cái cối xay. Tất cả những hiện tượng vật chất đó, nó có thể phục vụ cho sự sống của chúng ta. Thân thể của chúng ta là sinh lý. Bằng cái thân thể, chúng ta có thể cày ruộng, có thể gánh nước, có thể nấu cơm, thân thể ta phục vụ cho sự sống. Đó là những hiện tượng vật lý và sinh lý. Những hiện tượng tâm lý cũng vậy như là sự suy nghĩ cũng có thể tạo ra nhiều việc hay ho và nuôi sống con người. Tình thương của chúng ta cũng có thể biến thành năng lượng. Cũng như sự thù ghét của chúng ta cũng vậy. Nó có thể gây ra biết bao đau khổ giết chóc. Vì vậy cho nên các gốc cây, cái tảng đá, cái thân thể chúng ta đều là năng lượng. Niềm vui nỗi khổ chúng ta đều là năng lượng. Tất cả những nguồn năng lượng đó đều phải xuất từ tâm thức cộng đồng của chúng ta mà tâm thức là một cái gì rất mầu nhiệm. Tâm thức đó biểu hiện ra chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Mà đối tượng nhận thức là ba lãnh vực mà ta gọi là tam cảnh. Khi mà ta nghiên cứu về mười tám lãnh vực của hiện hữu thì mười tám lĩnh vực của hiện hữu trở thành đối tượng của nhận thức chúng ta. Ta đọc lại bài kệ thứ tám: “Biểu biệt A-lại-gia, là thế giới tánh cảnh, độc ảnh và đới chất, mười tám giới hình thành.”

Xem Tiếp Bài Kệ 9Quay Về Mục Lục




0 Đánh giá

Ads Belove Post