Duy Biểu Học – Chương 1. Thức Thứ Tám (Tàng Thức) – Kệ 9. Dị Thục Và Luật Đồng Thanh Tương Ứng

Duy Biểu Học – Chương 1. Thức Thứ Tám (Tàng Thức) – Kệ 9. Dị Thục Và Luật Đồng Thanh Tương Ứng

Price:

Read more

Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã

Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.


Giảng Luận Duy Biểu Học

Biết Rõ Sự Vận Hành Của Tâm


Chương 1. Thức Thứ Tám (Tàng Thức)

Bài Kệ 9. Dị Thục Và Luật Đồng Thanh Tương Ứng







Nghe hoặc Tải MP3 Tác Phẩm 'Duy Biểu Học' ê


Tất cả mọi hiện hành

Đều tự biểu, cộng biểu

Dị thục khi dự vào

Giới và Địa cũng thế

Hiện hành là một danh từ đi đôi với danh từ hạt giống. Hạt giống cũng là hiện hành mà nó nằm vào thế tiềm phục, ta không nhận thức được. Tới khi mà nó biểu hiện ra thì ta mới nhận thức được và ta gọi là hiện hành. Vì vậy ta gọi là tiềm thế và hiện thế. Đứng vào thế tiềm tàng thì ta gọi đó là chủng tử, còn đứng vào thế biểu hiện thì ta gọi đó là hiện hành. Ví dụ cái giận và cái buồn trong tôi, nếu nó đang nằm trong tiềm thế thì quý vị không thấy được nhưng khi mà tôi giận, tôi buồn, cái mặt tôi đỏ lên thì quý vị mới thấy. Lúc đó nó hiện hành, nó đứng về phía hiện thế. Tất cả mọi hiện hành tức là mọi hiện tượng của thế giới từ vật lý, sinh lý và tâm lý đều tự biểu và cộng biểu, tức là những biểu hiện chung và riêng.

Nhìn sâu vào mỗi biểu hiện chung và biểu hiện riêng của hiện tượng đó. Ví dụ như cái giận của tôi. Khi tôi chưa giận những hạt giống giận của tôi nằm ở thế tiềm tàng và không ai thấy. Họ nói ông này không giận, không đúng. Ông này có hạt giống giận trong tâm. Khi hạt giống giận đó biểu hiện ra, quý vị nhìn cho kỹ cho sâu vào cái giận thì quý vị sẽ thấy được cái bản chất của cái giận đó. Nó đang hiện hành. Bản chất của nó là tự biểu và cộng biểu tức là nó có tánh cách cá nhân, vì nó là hạt giống cái giận trong tâm thức tôi. Và khi hạt giống giận đó được tưới tẩm thì cái giận đó phát hiện. Đó là cái giận của tôi. Đó là tính cách tự biểu của hiện tượng nầy.

Nhưng mà nhìn cho sâu thì mình thấy, tánh cách cộng biểu của cái giận này. Tại vì những người quen, những người thân của tôi, những người đã sống chung đụng với tôi, những người đó đã đóng góp vào sự gieo những hạt giống của cái giận trong tôi. Vì vậy cái giận trong tôi, nó có tính cách tự biểu nhưng nó cũng có tính cách cộng biểu. Mình giận đời, giận người, giận hết tất cả mọi cái, cái đó là tại vì mình vô minh, mình thiếu sự hiểu biết nên mới giận. Nhưng tại vì Cha, Mẹ, Thầy, bạn, xã hội, cuộc đời không cứu giúp mình. Và trong sự chung đụng hằng ngày vì thiếu chánh niệm nên gây thêm hạt giống đau khổ cho mình, làm cho hạt giống giận trong mình ngày càng quan trọng. Vì vậy cho nên hạt giống giận trong tôi không phải chỉ một mình tôi chịu trách nhiệm. Đôi khi Ông Bà tôi, Tổ tiên tôi cũng chịu trách nhiệm, cha mẹ, bạn bè tôi và xã hội tôi chịu trách nhiệm. Thành ra chỉ nhìn vào hạt giống giận đang hiện hành trong một người, mình cũng có thể thấy được tánh cách của tự biểu và cộng biểu.

Bây giờ mình lấy ví dụ khác: Làng Loubes Bernac trong đó có Làng Hồng. Loubes là một làng nhỏ của nước Pháp, nó là một hiện hành. Nó là một pháp, một sự vật mà mình đang tiếp xúc. Nó là vật sở hữu chung của tất cả dân làng này và của chung của tất cả những người Pháp. Thành ra Loubes là một hiện tượng cộng biểu của tất cả những người Pháp, ai cũng có thể hưởng, đi thăm, mua nhà, mua đất ở làng này, dẫm những bước chân trên làng này. Nhưng với người dân ở làng Loubes Bernac thì miếng đất này thân thiết hơn, vì mình có những người thân sinh ra từ đây và chết ở đây, mình cày ruộng này cho nên đối với những người dân làng, thì Loubes có tính cách tự biểu. Trong cái chung, có cái riêng. Chúng ta những thiền sinh tới từ nhiều nơi, không sinh trưởng từ làng này, ta tham dự vào cái làng Loubes Bernac thì làng Loubes đối với chúng ta vừa có tính cách cộng biểu và vừa tự biểu.

Đáng lý thì ta không về đây làm gì vì nhiều người trong chúng ta không bà con sinh đẻ gì từ làng này hết. Nhưng tại vì ở đây có một trung tâm tu học nên chúng ta đã về đây và tham dự vào cái hiện hành của Loubes Bernac. Nhưng đối với chúng ta thì Loubes nó không giống với những người đang sống dưới làng. Chúng ta có hình ảnh rất khác về Loubes. Loubes đối với chúng ta là Làng Hồng là chỗ đi thiền hành, là chỗ thiền tọa, chỗ có pháp thoại, pháp đàm rất vui. Mà cái Loubes Bernac đó, chính những người sinh ra và lớn lên tại Loubes cũng không hề tham dự, không tiếp xúc được. Thành ra trong mỗi chúng ta có một Loubes Bernac riêng là tự biểu và cái Loubes Bernac chung là cộng biểu. Và chúng ta sống với Loubes trong hai mặt đó tự biểu và cộng biểu. Có khi có những anh chàng dưới làng Loubes lên chơi, chúng ta đi chung với anh ta, chúng ta nói “Loubes đẹp quá hả anh?” Anh ta rất nghi ngờ. Anh ta không thấy ở đây đẹp như mình thấy. Anh ta không hiểu tại sao cảnh vật như thế này mà lại khen đẹp được. Thành ra trong Loubes, có tính chất cộng biểu và tính chất tự biểu.

Ví dụ khác: Bây giờ nói đến cái thần kinh thị giác của tôi, nó liên hệ đến tôi rất nhiều. Những hạnh phúc, những đau khổ của tôi, nó tùy thuộc vào thần kinh thị giác của tôi. Nếu nó mờ thì tôi không đọc sách được và vì vậy cái dây thần kinh thị giác của tôi, nó có tính cách tự biểu nhiều hơn cộng biểu. Nó là vấn đề riêng của tôi, đó là hiện tượng tự biểu nhưng thật ra nó cũng là hiện tượng cộng biểu. Tại vì tôi thấy rõ hay không thấy rõ, nó có liên hệ tới những người trong cộng đồng tôi, nhất là khi tôi lái xe, đưa các bạn tôi đi ra ga. Ngồi trên chiếc xe buýt có ba bốn chục người, mình hoàn toàn giao sinh mạng mình cho ông tài xế và cái thần kinh thị giác của ông tài xế không phải của riêng ông, mà nó liên hệ tới sinh mạng của nhiều người. Tất cả những hiện tượng vật lý trong thế gian như cây, cỏ, sông, núi, những hiện tượng sinh lý như thân thể mình và thân thể người khác và hiện tượng tâm lý như cái giận, cái buồn, cái sợ, cái lo của mình và nhiều người khác, tất cả những hiện tượng đó là hiện hành, và hiện tượng nào cũng có tính cách tự biểu và cộng biểu. Không có thể tìm ra được hiện tượng thuần túy tự biểu hay không có hiện tượng nào thuần túy cộng biểu.

Mặt trời là mặt trời chung rất công bằng cho tất cả mọi người. Nhưng mà mặt trời của tôi nó khác với mặt trời của anh. Ngày hôm đó tôi muốn đi picnic thì tôi mong mặt trời của tôi nắng suốt ngày, còn một người nông dân đang trong trời mưa để tưới tẩm những hạt giống anh ta vừa gieo thì cũng ngày hôm nay anh ta mong mặt trời đừng xuất hiện, mặt trời phải có mây che lấp và có mưa để cho những cây hướng dương của tôi sớm mọc lên. Và cũng cùng mặt trời đó, miền Bắc khí hậu nó khác, miền Nam khí hậu khác, bên Úc khí hậu khác, Âu Châu khí hậu khác. Thành ra mặt trời kia có tính chất cộng biểu mà cũng có tính cách tự biểu.

Ở Việt Nam mặt trời không quý lắm vì trời nóng quá. Vì vậy ta mong thỉnh thoảng có một đám mây đi qua, che mặt trời cho ta được mát chút xíu. Còn bên này hạnh phúc là mặt trời. Thành ra trong Duy Biểu học nói rằng tất cả mọi hiện tượng vật lý, sinh lý hay tâm lý đều có tính cách tự biến và cộng biến. Có nhiều khi nó mang nặng tính cách cộng biểu, có khi mang nặng tính cách tự biểu.

Một ví dụ nữa là pháp luật nước Pháp, trên nguyên tắc là được chế ra cho những người công dân Pháp nhưng mà những người dân thấp cổ bé miệng, không đủ cơ hội để có một nền giáo dục tối thiểu thì người dân đó không thừa hưởng pháp luật đó bằng những người trí thức. Có những người cảnh sát họ hống hách và tại miền quê họ có thể đàn áp, chèn ép những người nông dân không biết luật. Nhưng nếu những người dân quê đó mà biết luật mà quen biết lớn trong thành phố thì anh cảnh sát kia không dám làm bậy đâu. Cho nên trên nguyên tắc thì pháp luật là chung, ai cũng có thể thừa hưởng nhưng mà pháp luật cũng có cách cộng và tự biến.

Ví dụ nữa là một cây nến. Khi ta đốt lên một cây nến thì sẽ có nhiều vùng ánh sáng: vùng 1 gần cây nến (độ sáng có thể là 10), vùng 2 sáng ít hơn (độ sáng là 7) và vùng thứ 3 thì lại yếu hơn nữa (độ sáng là 4). Trong khi đó ta đốt lên ngọn nến thứ hai. Ngọn nến này cũng phát ra những vùng ánh sáng thứ nhất, hai và ba.

Ánh sáng cây nến này nó soi sáng cho nó mười phần và nó soi sáng cho các vật khác 10 hay 8, 7, 6, 5, 4 phần và nó cũng soi sáng cho cái đèn kia 4 phần. Đèn kia cũng vậy. Vùng ánh sáng riêng của nó có thể gọi là tự biểu nhưng mà trong cái vùng ánh sáng đó nó có mặt vùng ánh sáng khác của cái đèn kia gửi tới. Vì vậy cái vùng này không phải tự biểu mà nó có cộng biểu nữa. Nhìn kỹ lại, vùng nào cũng vừa có tự biểu vừa có cộng biểu. Vùng nào cũng vậy, ta không thể tìm ra bất cứ hiển hiện nào chỉ là tự biểu hay chỉ là cộng biểu. Điều này rất quan trong trong Duy Biểu học.

Sư chú Pháp Đăng vừa là hiện tượng tự biểu mà cũng là hiện tượng cộng biểu. Chú đã tự tạo ra đời sống của mình, sự nghiệp tu học của mình, tạo ra đời sống an lạc của mình. Đó là hiện tượng tự biểu nhưng mà Cha Mẹ của Sư chú, bạn bè, Thầy tổ của Sư chú, Tăng thân của chú cũng đóng góp cho sự tạo tác ra chú Pháp Đăng. Thành ra chú vừa tự biểu mà vừa cộng biểu.


Ví dụ khác như cuốn Đường Xưa Mây Trắng. Theo nguyên tắc thì cuốn đó là do một người viết, Thầy viết. Nhưng nhìn cho kỹ thì ta thấy, đó cũng là sáng tạo phẩm cộng đồng, tại vì ông bà của tác giả có tham dự vào việc viết cuốn đó, Thầy tác giả cũng có tham dự, bạn tác giả, học trò của tác giả đều có tham dự. Đó là một cuốn sách cũng có tánh cách cộng đồng.



Nhìn vào một thiếu nhi phạm pháp mà đang bị cầm tù. Hành động phạm pháp của thiếu nhi đó là sản phẩm của gia đình, học đường và xã hội của nó, vì vậy hành động phạm pháp của nó, tất cả chúng ta đều phải gánh chịu chung. Chúng ta không có còn buộc tội thiếu nhi đó như một người chịu trách nhiệm duy nhất nữa. Nhìn được như vậy thì chúng ta hiểu được nhiều hơn và thương được nhiều hơn.

Khi một thanh niên bị vướng vào ma túy, anh ta dùng heroine và cuối cùng không có tiền mua heroine để chích, nên phải gia nhập một đoàn buôn thuốc phiện lậu để có tiền. Ta thấy người đó đang đi vào con đường tội lỗi, hại mình, hại người vì hành động vướng vào ma túy và buôn bán ma túy, không phải là con đường đạo đức, nhưng nhìn kỹ vào tình trạng thiếu niên đó, ta có thể khám phá ra những điều sâu sắc. Có thể là thiếu niên đó trong thời thơ ấu không được thương yêu. Mẹ cha thiếu niên đó cãi lộn nhau, đã làm khổ nhau và làm khổ chú bé đó. Thiếu tình thương, thiếu giáo dục, thiếu thấy một cái gì đẹp, cái gì có ý nghĩa để đi theo, thì người ta hay tìm sự quên lãng trong rượu, trong ma túy, trong thuốc. Và vì vậy cho nên tất cả một xã hội trong đó có cha mẹ, ông bà, học đường, văn hóa đã chịu trách nhiệm về việc đã đẩy người thiếu niên đó vào vòng nghiện ngập. Thành ra tình trạng nghiện ngập của thiếu niên đó có tính tự biểu vừa có tính cộng biểu. Thiếu niên đó tất nhiên là chịu trách nhiệm, nhưng tất cả những người chung quanh thiếu niên đó cũng chịu trách nhiệm. Nếu chúng ta thấy được điều đó, chúng ta có thể hiểu và chúng ta sẽ có thể thương được người thiếu niên đó. Chứ nếu chỉ biết lên án và trừng phạt thì không thể nào giúp được thiếu niên kia. Tại vì suốt đời của thiếu nên đó đã từng bị trừng phạt, trách móc, la mắng rồi. Nếu chúng ta chỉ biết trừng phạt, trách móc, la mắng thì không bao giờ người thiếu niên đó thoát khỏi tình trạng kia. Vì vậy cho nên những hành động như dùng những lực lượng công an tổ chức đi lùng bắt, khám phá những ổ ma túy là nó ích lợi nhưng không phải là những hành động cơ bản. Khi mà người ta tìm tới ma túy là vì người ta đau khổ, muốn tìm chỗ quên lãng, muốn trốn tránh đời. Tại sao người ta lâm vào tình trạng đau khổ, muốn lánh đời, trốn đời? Tại vì người ta không có hạnh phúc. Gia đình không cho hạnh phúc, học đường không cho hạnh phúc, xã hội không cho hạnh phúc, mà hiện giờ hàng chục triệu thanh thiếu niên trên thế giới đang đi vào con đường đó. Thành ra hình phạt như bỏ tù không phải là hành động có thể cứu người thiếu niên kia qua cơn mê. Phải có tình thương, sự hiểu biết, phải có phương thức để đem lại cho những người kia những ý nghĩa, những niềm vui trong sự sống thì mới giúp họ thoát khỏi tình trạng tâm lý và xã hội, nó dìm người đó xuống vực thẳm.

Tất cả những ví dụ đó đưa ra để quý vị thấy rằng tất cả những hiện tượng tâm lý, vật lý hay sinh lý đều là biểu hiện từ tâm thức như là một năng lượng. Và hiện tượng nào cũng mang trong đó tánh cách tự biểu và cộng biểu.

Dị thục khi dự vào, giới và địa cũng thế.

Chúng ta biết rằng dị thục (vipaka) là một cái tên nữa của thức A-lại-gia. Dị là khác và thục là chín. Thức A-lại-gia hay tàng thức hay nhứt thiết chủng thức còn có tên mới này nữa là dị thục thức. Di thục có ba nghĩa: dị thời nhi thục, dị loại nhi thục và biến dị nhi thục.

Dị thời nhi thục là không cùng chín một lúc. Ví dụ như ta hái vào một trái mãng cầu, một buồng chuối và một trái mít và đem cất vào kho. Trái mãng cầu có khi chín trước, buồng chuối chín thứ hai và trái mít chín sau. Đó là dị thời là khác thời. Những hạt giống của chúng ta do cha mẹ, ông bà, bạn bè ươm vào và tưới, nó chín trước chín sau tùy thời gian. Thành ra đừng tự hỏi tại sao Thầy dạy hoài mà chưa giỏi, tại sao đi thiền hành hoài mà chưa thấy an lạc. Hạt giống nào cũng phải có thời gian chín mới được. Sự thực tập là tưới tẩm những hạt giống trong chúng ta. Ta tin rằng cứ tiếp tục tưới tẩm thì hạt giống đó sẽ lớn lên đúng mức và tiếp tục chín muồi.

Dị loại nhi thục là có nhiều loại hạt giống, nó khác thời mà khác loại nữa. Nghĩa là trái chuối thì khi chín sẽ thành trái chuối chín, mãng cầu khi chín thành mãng cầu chín chứ không thành chuối được. Gọi là dị loại.

Biến dị nhi thục nghĩa là khi chín thì biến dạng chứ không giống như thời mới sinh. Ví dụ như trái cam mới sinh nó vừa xanh vừa chát, vừa màu xanh mà khi chín thì biến thành màu vàng, đỏ vừa ngọt. Thức A-lại-gia gồm đủ thứ hạt giống và nó chín từ từ. Cái đau khổ và hạnh phúc của mình, nó tùy thuộc vào sự chín tới của những hạt giống. Hạt giống của hạnh phúc chín thì mình sẽ hạnh phúc, còn hạt giống của sự đau khổ chín thì mình sẽ đau khổ. Nhưng mà dị thục thức là tổng thể của những hạt giống và khi mà nó chín thì nó có sự tổng hợp và mình có thể thấy được kết quả gọi là dị thục quả. Con người của mình với tình trạng hạnh phúc, đau khổ trong hiện tại là một dị thục quả. Trái cây của mình trong giờ phút hiện tại là kết quả của những hạt giống trong quá khứ.

Tôi xin đem một ví dụ: tạm gạch một hàng ngang, chấm một chấm tượng trưng cho mức hạnh phúc trung bình. Không hạnh phúc lắm nhưng không đau khổ lắm. Có người A đó gieo trong ngày hôm đó một hạt giống rất mạnh hoặc một người khác gieo dùm cho người đó một hạt giống rất mạnh, có thể đưa người đó tới khổ đau hay hạnh phúc trong tương lai. Và chúng ta hay vẽ một mũi tên. Ví dụ người đó làm một hành động rất quả cảm, đầy thương yêu và hành động đó nặng chừng hai ba chục ký chẳng hạn. Hành động đó khi mà chín sẽ đưa người đó lên có hạnh phúc. Thành ra gieo một cái nhân (nghiệp nhân). Khi nghiệp nhân chín thì sẽ đưa người kia đến mức này. Mức này thì hạnh phúc nhiều hơn vị trí cũ phải không? Tới chỗ cao trên kia là nghiệp quả. Trong tàng thức người đó, vừa mới có một trái mãng cầu hay trái mít gì đó vừa mới đặt vào, ta chưa biết nghiệp quả và ta biết rằng hạt giống đã gieo thế nào cũng tốt. Nhưng chiều hôm đó có thể người đó bị quyến rũ và đã tạo ra một nghiệp khác không được tốt mấy. Ví dụ người đó mắng chửi người khác và khiến cho người khác mất hết niềm tin nơi mình và người đó bỏ tu học và người đó xa thầy, xa bạn, đi luôn. Thành ra đó là hành động không có xây dựng, người đó đồng thời gây vào tâm thức của mình một nghiệp nhân xấu. So với nghiệp nhân trước thì nghiệp nhân này nó nhẹ, hơn và sức mạnh của nó yếu hơn. Chúng ta đơn giản hóa vấn đề nói rằng trong tâm thức của người này chỉ có hai hạt giống thôi, hạt giống thiện và bất thiện. Khi mà cái đó, nó chín thì quả dị thục sẽ đưa người đó về đâu?

Theo nguyên tắc vật lý học thì sau khi vẽ hình bình hành như vậy thì khi cả hai hạt giống chín quả dị thục sẽ đưa người đó đi về đâu? Theo nguyên tắc vật lý học thì sau khi vẽ hình bình hành như vậy thì khi hạt giống chín thì quả dị thục sẽ đưa người đó tới chỗ cộng lại chia hai của nghiệp quả. Đây là địa vị của người đó trong tương lai khi mà quả dị thục chín. Vì vậy dị thục có nghĩa là sự kết hợp lại tất cả những nghiệp nhân khi mà nghiệp nhân đó chín.

Ta nhìn vào con người chúng ta tâm lý, sinh lý, hạnh phúc, đau khổ của chúng ta thì chúng ta biết rằng đó là cái dị thục quả trong giờ phút hiện tại. Nhìn lui thì chúng ta thấy những nghiệp nhân mà chúng ta đã gieo, chúng ta nhận diện ra những nghiệp nhân có trong quá khứ. Chúng ta nhờ Thầy, nhờ bạn, nhờ cha mẹ, những những điều kiện thuận lợi mà bây giờ chúng ta được hưởng cái không khí trong lành an lạc của Thiền hành. Ta nhìn trở lui ta thấy hết những nghiệp nhân đã gieo ngày xưa. Chúng ta thấy rằng nếu những hạt giống đó được tưới tẩm, được chăm sóc được gieo trồng thêm nữa, thì ngày mai chúng ta sẽ khá hơn.

Ví dụ như ta làm thêm một hành động rất thiện thì cố nhiên hành động thứ ba sẽ đưa ta lên khá hơn. Vì vậy cho nên khi ta nghe câu hỏi của Jean Paul Sartres tức là “l’homme est la sôme de ses actes.” Con người là tổng thể của những hành động của mình thì mình biết rõ rằng là người của mình đây là tổng nghiệp A cộng với B cộng với C chia ba. Nghiệp nhân là hành động ta làm ta gieo, nghiệp quả là kết quả sau khi những nhân gieo đã chín. Vì vậy khi ta thực tập thiền quán, ta nhìn vào thân tâm ta trong hiện tại, ta thấy trình độ của hạnh phúc của sự nhẹ nhàng của sự giải thoát của chúng ta. Rồi chúng ta phăng ra từ từ: trong quá khứ chúng ta đã làm những việc gì, chúng ta đã được ai giúp đỡ, chúng ta đã thực tập được những gì để hôm nay được thanh thản đó, có được hạnh phúc đó, có được sự tiêu dao đó, và ta đã làm những nghiệp nhân nào hôm nay chúng ta vẫn còn những cái giận, cái buồn… vài cái ganh ghét còn sót lại. Đó là hành động quán chiếu để tìm ra những hạt giống năm xưa mà chỉ cần nhìn vào trái cây là biết được hạt giống. Hễ tiếp xúc được hoa trái thì mình có thể nhận diện hạt giống gieo ngày trước.

“Dị thục khi dự vào, giới và địa cũng thế.”

Giới là ba cõi trong đó chúng ta sống: cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc.

Và Địa là chín địa (từ địa thứ nhất là ngũ thú tạp cư địa cho đến địa thứ chín là phi phi tưởng phi phi tưởng xứ địa).

Tam giới hay chín địa là những cõi mà do tâm thức của nhiều người trong chúng ta cộng tác để làm ra. Ví dụ như Làng Hồng chẳng hạn. Làng Hồng là một sáng tạo phẩm của tâm thức cộng đồng. Thầy trò, bạn hữu, đại chúng tu học, chúng ta đã dùng tâm thức của chúng ta để sáng tạo ra Làng Hồng. Làng Hồng là thế giới cộng biểu của chúng ta, những người có tâm tu học, chúng ta tạo dựng Làng Hồng để thừa hưởng và để tu tập.

Tam giới Cửu địa. Cửu địa là cõi mà tâm thức cộng biểu của chúng ta cùng sáng tạo ra để chúng ta sống. Chúng ta sống ở cõi dục, sắc hay cõi vô sắc hay là một thế giới, một cõi nào đó thì cõi đó hoàn toàn do sáng tạo phẩm của tâm thức cộng đồng của nhiều người. Dị thục nó tìm tới và tham dự vào cái cõi giới và địa đó. Tại sao bây giờ ta không ở Canada mà chạy sang Làng Hồng? Tại vì chúng ta có cộng nghiệp với dân Làng Hồng?

Đó là tham dự vào giới địa. Tại sao bây giờ chúng ta không ở Bordeaux mà lại lở Loubes. Tại vì trong chúng ta có một hạt giống có liên hệ với hạt giống của những người đang ngồi tại đây cho nên sáng hôm nay ta tìm tới đây. Vì thế cái dị thục nó đi tìm cái đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu để mà tham dự và có một sức mạnh, nó kéo mình tới, để mình tham dự vào cái đó mà không đi tới tham dự vào cái khác. Đó là những hạt giống đã được quyết định sẵn trong dị thục quả. Dị thục quả là sự có mặt của Làng Hồng và một Tăng thân tu tập. Dị thục nhân là những hạt giống mình đã gieo trong quá khứ và chính những hạt giống đó, nó kéo mình tới chứ không phải người khác kéo. Đó gọi là nghiệp lực. Nghiệp lực này là thiện nghiệp.

Nhưng nếu mà mình có hạt giống của ma túy thì mình đâu còn ngồi đây, mình đang ngồi chỗ khác. Có những người bây giờ đang ngồi xem video, phim chưởng hay đi nhậu nhẹt rượu thịt, tại vì trong họ có những hạt giống nhậu nhẹt, rượu thịt hay video bạo động, còn mình thì có hạt giống Phật pháp nên mình bị hút về đây. Thành ra chúng ta cứ nhìn vào dị thục quả hiện giờ đây, chúng ta biết ngay, sờ mó ngay được những được hạt giống ta đã gieo trong quá khứ.

Ngày hôm nay ngồi trong nhà bếp nầy không phải là cái việc ngẫu nhiên. Sự kiện mà ta ngồi đây, hôm nay, trong cái nhà bếp nầy, nó đã được quy định trước tức là những hạt giống đã được gieo trước ở trong A-lại-gia của chúng ta và hôm nay nó được tưới tẩm, nảy nở và nó cho ta đủ sức mạnh để tới và tham dự trong cộng đồng tu học nầy. Thành ra cữu địa hay là ba cõi là những cõi làm các chúng sanh sáng tạo ra bằng tâm thức cộng đồng của họ. Chúng ta chưa hiểu biết nhiều về tâm thức chúng ta đâu. Tâm chúng ta mầu nhiệm vô cùng. Tâm chúng ta tạo ra Phật, tạo ra ma, tạo ra thiên đường, tạo ra địa ngục. Thành ra không có cõi nào mà tâm chúng ta không tạo được.

Dị thục khi dự vào, giới và địa cũng như thế, chúng ta tham dự vào giới thì dục giới có tính cách tự biểu mà cũng có tánh cách cộng biểu. Cái dục giới đó là chung của chúng ta. Nó có tính cách cộng biểu. Bây giờ xã hội Tây phương được gọi là xã hội tiêu thụ nó là cái thế giới cộng biểu, nhưng mà các Sư cô, Sư chú, các Phật tử ở đây, chúng ta đâu có tiêu thụ bằng những người hiện đang ở Paris hay Bordeaux? Chúng ta đâu có trả tiền nhà nhiều như họ? Cố nhiên là chúng ta đang sống thế giới cộng biểu, trong cõi dục. Tất cả những quảng cáo trên truyền hình đều là tưới tẩm những hạt giống dục của chúng ta. Nhưng mà ở Làng Hồng, chúng ta không có xem những quảng cáo đó nên những hạt giống dục đó không bị tưới. Thành ra trong cái chung mà đã có cái riêng rồi. Tuy ở Pháp trong xã hội tiêu thụ nhưng mà người dân Làng Hồng không có bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự khêu gợi, sự kích động của những quảng cáo. Trong khi những người ở Paris và các thành phố lớn, họ thuê nhà, rồi phải đi làm, rồi trả tiền nhà, tiền điện, nước, thuế… Họ trả nhiều lắm, thành ra họ làm cực lắm. Phải làm như là con trâu thì mới có tiền để mà trả đủ những nhu yếu đó. Trong khi đó, tuy là chúng ta cũng ở Pháp, cũng ở trong xã hội tiêu thụ, nhưng mà ở đây nếu tính ra, chúng ta trả ít hơn nhiều. Tiền thuế nhà cửa, thuế đất, tiền ăn, tiền uống ít hơn nhiều. Những ăn uống tiêu thụ của ta cũng vậy, so sánh thì nó ít hơn người khác nhiều. Thành ra tuy là cùng cõi dục nhưng mà chúng ta ít dục. Vì vậy ta lại thấy được một khía cạnh của sự thật nữa là trong cái cộng biến, thế nào cũng có cái tự biến.

Vì vậy cho nên các vị hiền thánh cũng có thể ở trong cõi dục nhưng không bị cái dục nó làm cho trôi nỗi, bềnh bồng. Cõi này có thể gọi là phàm thánh đồng cư. Cũng xã hội tiêu thụ đó, cũng những cái dục vọng cám dỗ người đó, nhưng mà những người thánh thiện thì họ vẫn giữ được cái tự do an lạc, trong khi những người phàm phu thì bị đắm chìm. Trong cái chung, nó có cái riêng, trong cái riêng, nó có cái chung. Có cái đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.

Có một lần Bụt ngồi trong tịnh xá Kỳ Viên, Ngài nhìn ra ngoài, chỉ ra ngoài sân và nói chuyện với vài vị đệ tử xung quanh. Ngài nói: “Các Thầy thấy không? Nhìn ra mà coi, các Thầy có thấy rằng những Thầy mà ưa pháp đàm đang ngồi vây quanh Thầy Xá Lợi Phất phải không? Tại vì các người đó ưa pháp đàm với Thầy Xá Lợi Phất. Còn các Thầy mà ưa giới luật, ưa học về tì ni thì ngồi quanh Thầy Ưu Bà Ly. Còn các Thầy ưa học thuyết pháp thì đang quay quần bên Thầy Phú Lâu Na. Tại vì Thầy Xá Lợi Phất pháp đàm giỏi, Thầy Ưu Bà Ly giới luật giỏi và Thầy Phú Lâu Na thuyết pháp hay. Có nghĩa là trong tâm mình có cái ý muốn, cái sở thích, cái nghiệp lực của mình như thế nào thì sự tham dự của mình vào cái giới, vào cái địa đó cũng vậy.

Thành ra khi mình tìm tới một người bạn để mà chơi tại vì mình với người bạn đó có sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, Affinities. Trong cái dị thục của mình, nó ghi chép đủ và dị thục của mình thì đến cái giới và cái địa của mình rất tự nhiên. Đó là nghĩa của câu “Dị thục khi dự vào, Giới và Địa cũng thế.”

Trong bài kệ thứ chín chúng ta học rằng: Tất cả mọi hiện hành trong tàng thức chúng ta, đều tự biểu, cộng biểu, dị thục khi dự vào giới và địa cũng thế. Nghĩa là mọi hiện tượng mà chúng ta tiếp nhận, tri giác, hiện tượng nào cũng mang trong nó tính cách tự biểu, cộng biểu, tức là tính cách chung và riêng. Khi mà những trái cây chín và tham dự vào những giới và những địa thì cái dị thục đó cũng có tính cách tự biểu và cộng biểu.

Giới là tam giới và địa là cửu địa. Tam giới là: Cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc. Cửu địa có khi gọi là cửu hữu. Hửu này là cõi. Chúng ta thường nghe tứ sanh gồm bốn loại tức là bốn loại sinh vật (sanh bằng bào thai - thai sinh - như là con người, sanh bằng trứng như con chim con rắn - noãn sinh, sanh từ nơi ẩm thấp - thấp sinh - và sanh bằng cách biến hóa, như loài tằm con bướm). Cửu hữu là chín cõi có khi gọi là cửu địa hoặc cửu chúng sanh cư hoặc cửu hữu tình cư, chỗ cư trú của các loài hữu tình.

Địa:

1. Cõi dục giới, trong này loài trời và loài người ở chung, thú là đi về. Chúng ta có năm cõi để đi về: cõi trời, cõi người, cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ và súc sanh). Cõi này, đặc tính của nó là nhiều ham muốn, ngũ thú đồng cư địa.

2. Cõi phạm chúng thiên, trong này người ta có thân thể khác nhau nhưng cách suy nghĩ giống như nhau. Cõi này cũng được gọi là cõi trời của đệ nhất thiền thiên.

3. Cực quang tịnh thiên, trong cõi trời này có rất nhiều ánh sáng. Thân thể thì như nhau nhưng sự suy nghĩ khác. Gọi là nhị thiền thiên.

4. Biến tịnh thiên, cõi này có nhiều sự thanh tịnh. Thân và tâm nó giống hệt như nhau. Còn gọi là tam thiền thiên. Cõi trời của tam thiền.

5. Vô tưởng thiên, là cõi không có tri giác, cõi cao nhất của tứ thiền: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền.

Còn bốn địa chót thuộc về thế giới vô sắc, đó là bốn địa cao nhất: Không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Không vô biên xứ: cõi này chỉ có không gian vô biên. Thức vô biên xứ: cõi này chỉ có thức vô biên. Vô sở hữu xứ: cõi này người ta không thấy sự có mặt của mọi hiện tượng. Phi tưởng phi phi tưởng xứ: là cõi không có tri giác mà cũng không phải là không tri giác.

Ba giới là cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc.

Giới:

1. Cõi dục, trong này nhiều ham muốn dục vọng. Có năm loại: ngũ thú.

2. Cõi sắc, có bốn: Sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền.

3. Cõi vô sắc, không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Tất cả là chín địa hay chín cõi. Cửu hữu. Tứ sanh, Có khi gọi là cửu chúng sanh cư.

Khi mà cái quả dị thục chín thì tùy theo cái tính chất đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu mà chúng tham dự vào cái giới hay cái địa. Ví dụ Làng Hồng là một vùng nhỏ ở Âu Châu là một vùng lớn. Mình thuộc về cái vùng lớn nhưng mình tới tham dự vào cái vùng nhỏ. Sự tham dự vào cái vùng nhỏ tùy thuộc vào bản chất của dị thục mình, tại vì mình có nhiều sự gần gũi, nhiều sở thích với địa phương đó, với giới đó, và địa đó. Ví dụ như đây là cái thế giới thì cái dị thục của chúng ta nó tham dự vào cả thế giới đó nhưng dị thục đặc biệt kéo chúng ta vào tham dự một vùng riêng biệt. Ví dụ như mình ở Âu Châu thì cố nhiên là ta tham dự vào Âu Châu này, chúng ta có liên hệ với tất cả Âu Châu nhưng khi chúng ta về Làng Hồng thì chúng ta tham dự vào cái địa này, chúng ta ở đây, chúng ta chia sẻ, chúng ta sống, chúng ta vui, chúng ta buồn, chúng ta tạo nên cái địa này nhưng mà không có nghĩa chúng ta bỏ cái kia (Âu Châu), ta vẫn còn tham dự với cộng đồng kia, dị thục nó tham dự vào trong cái cộng và cái tự, cái chung và cái riêng.

Tuy là chúng ta tới Làng Hồng tham dự cái địa này nhưng mà thành phố kia của Âu Châu mà chúng ta đang có người thân quen vẫn còn đó, ta vẫn còn tham dự vói thành phố đó nhưng hiện giờ ta đang tới tham dự vào cái vùng nhỏ vì mình có nhiều cái sở thích giống nhau.

Có tất cả chín địa. Khi mà ta tham dự vào một trong chín địa thì không có nghĩa là dị thục chúng ta không tham dự vào tám địa khác nhưng tham dự vào tám địa kia loãng hơn, trong khi địa thứ chín đặc hơn. Ví dụ chúng ta đang ở nước Pháp là làng Loubes Bernac. Loubes Bernac thì đậm hơn còn Paris và các thành phố khác thì loãng hơn. Chúng ta có tham dự vào cả hai.

Dị thục ta tham dự vào tính cách chung và đồng thời tham dự vào tính cách riêng nữa. Vì vậy cho nên mình đang ở cõi không vô biên xứ thì tham dự vào cõi này rất đậm đà, nhưng điều đó mình không có nghĩa là không tham dự vào cái địa khác. Tại vì trong mình có thảy chín địa. Và khi một địa biểu hiện đậm đà thì các địa kia bị mờ đi. Như máy truyền hình khi mình mở đài đài thứ ba ra thì đài này rất rõ nhưng không có nghĩa là các đài kia không có.

Dị thục là trái cây của tâm thức mình, khi chín thì nó tìm tới, tham dự vào cái địa nó gần gũi với cái nghiệp của mình nhất. Ví dụ trong tàng thức mình, nó có cái nghiệp của xì ke ma túy. Tự nhiên có hấp dẫn lực nào đó, nó kéo mình tới sống chung với những người ưa ma túy. Ở đây cũng vậy, có chín địa, trái dị thục của chúng ta nó đưa tới tham dự một cách sâu sắc một giới hay một cõi nào đó.

Xem Tiếp Bài Kệ 10 – Quay Về Mục Lục




0 Đánh giá

Ads Belove Post