Read more
Chuyến bay của
một mình tới một mình
Bài giảng về Kaivalya Upanishad
Chương 2. Thái
độ của đệ tử
Thế rồi trong việc truy tìm về brahmavidya, khoa học của chân lí tối thượng, Maharishi Ashvalayana đi tới Chúa tể Brahma, thần sáng tạo, với thái độ của một đệ tử, mang theo samidha, biểu tượng của nhận biết về dốt nát riêng của mình, và khiêm tốn hỏi:
“Chúa thượng, xin dạy con bí mật
vĩnh hằng và con đường cao quí của brahmavidya, con đường mà các hiền nhân bao
giờ cũng đi, và qua nó trí huệ đã làm tan biến các hành động xấu quá khứ của họ
và đã kinh nghiệm chân lí tối thượng.”
Đại Chúa thượng Brahma nói: “Để
kinh nghiệm thực tại tối thượng, người ta trước hết phải nương náu ở tin cậy,
thành tâm, thiền và yoga.”
Khao khát sâu sắc nhất trong
tâm con người là biết. Khao khát biết là chính linh hồn con người. Bản thể con
người muốn biết bất kì cái gì đang không được biết, bản thể con người muốn làm
lộ ra bất kì cái gì đang bị giấu kín. Bản thể muốn cái vô hình trở thành hữu
hình và cái không chạm tới được trở thành chạm tới được, để cho không cái gì
còn lại trong bóng tối. Phải không gì còn lại mà không được biết tới bởi vì bất
kì chỗ nào con người không biết, điều đó làm cho con người thành lệ thuộc: “Cho
tới một điểm nào đó tôi vẫn biết, và bên ngoài điểm này tôi không biết - đây là
biên giới của tôi và tù túng của tôi. Bức tường nhà tù của tôi được tạo nên từ
dốt nát của riêng tôi. Khi không có gì là không được biết thêm nữa, tôi sẽ
không còn có bất kì biên giới nào.”
Dốt nát là biên giới đấy, do đó
dốt nát là phiền não. Việc biết là không bị giới hạn, do đó nó là giải thoát.
Trong con người có nỗ lực thường xuyên để đập tan những biên giới này. Nỗ lực
này có thể có hai chiều hướng: Một chiều là ham muốn để biết mọi hạt của toàn
thể sự tồn tại này đang bao quanh chúng ta. Ham muốn này để biết từng hạt một,
từng nguyên tử một, là nỗ lực của khoa học. Khoa học là tri thức thông qua phân
tích. Cho nên một cách để biết mọi thứ là phân chia chúng ra và khám phá hợp
thành cơ sở nhất của chúng. Nếu bạn muốn biết nước, thế thì bạn có thể phân
chia nó ra và khám phá các phần tử cơ bản trong nó, và khi bạn đã có khả năng
khám phá các phần tử cơ bản trong nước, bạn đã biết nước. Tri thức này nghĩa là
nếu bạn muốn tạo ra nước bạn có thể làm ra nó, và nếu bạn muốn, bạn cũng có thể
phá huỷ nó.
Khoa học sẽ phân chia nước ra
và nó sẽ tìm kiếm các đơn vị cơ sở của ô xi và hidro. Để biết nước điều này sẽ
là đủ, nhưng bây giờ nó sẽ cần phân tách hidro và o xi để tìm ra chúng được làm
từ cái gì.
Khoa học sẽ khám phá ra điện tử,
và dốt nát sẽ bị đẩy lui thêm một bước nữa - nhưng nó không bị phá huỷ. Với tri
thức này bạn thậm chí có thể tạo ra hidro. nhưng thế thì điện tử sẽ trở thành
giới hạn của tri thức của bạn.
Trong hai nghìn năm qua, khoa học
đã đẩy dốt nát ra xa, rất xa - hay nó dường như vậy - nhưng dốt nát đã không biến
mất; ở bước tiếp lại có nó. Bây giờ các nhà khoa học đã bắt đầu chấp nhận rằng
cái ngày này sẽ không bao giờ tới, khi mà qua khoa học, con người sẽ có khả
năng bãi bỏ dốt nát hoàn toàn - bởi vì tri thức tới từ quá trình chia chẻ sẽ phải
bị chia chẻ nữa để được biết tới. Cái gì đó bao giờ cũng còn lại không được biết.
Theo cách này, bao giờ cũng sẽ có dốt nát.
Bây giờ khoa học đã hiểu rằng
bao giờ cũng có dốt nát. Dù chúng ta có thể biết hay không cũng không thành vấn
đề, cái không biết bao giờ cũng ở khắp xung quanh chúng ta. Khoảng cách giữa
chúng ta và dốt nát bao giờ cũng vẫn còn như cũ, nó sẽ không bao giờ thay đổi cả.
Đầu tiên, nếu tôi không biết nước là gì, thế thì dốt nát về nước đang bao quanh
tôi. Nhưng thế rồi, nếu tôi khám phá ra nước là gì và vấn đề đó được giải quyết,
dốt nát về hidro và oxi sẽ bao quanh tôi. Khi tôi đã biết về điều đó, thế thì dốt
nát về điện tử sẽ bao quanh tôi. Và khi ngày mai điện tử cũng được biết, thế
thì dốt nát về cái còn lại sau cái đó sẽ bao quanh tôi. Nó là việc hồi qui vô hạn.
Cho nên trong nỗ lực này để biết,
một cách là tìm ra bằng cách phân chia. Nhưng sau khi phân chia, cái gì đó bao
giờ cũng sẽ còn lại mà vẫn là cái không biết. Bất kì khi nào chúng ta phân
chia, cái gì đó bao giờ cũng bị bỏ lại đằng sau.
Điều đáng quan tâm hơn là ở chỗ
ban đầu có dốt nát về một thứ, nước, và thế rồi khi chúng ta phân tích nó, sự
việc trở thành dốt nát về hai thứ, hidro và oxi. Dốt nát về một thứ dường như
lùi lại một bước, nhưng nó cũng đã phát triển thêm một bước nữa. Trước kia
chúng ta đã dốt nát về chỉ mỗi một thứ, còn bây giờ chúng ta không biết về hai
thứ. Theo một nghĩa nào đó, quá trình phân chia dường như đang phá huỷ dốt nát
của chúng ta, nhưng theo một nghĩa khác thì nó lại dường như đang làm tăng dốt
nát lên.
Điều thú vị là khoa học càng biết
nhiều, dốt nát của chúng ta càng lớn lên hơn. Trong quá khứ các nhà khoa học
thường nói về năm yếu tố, cho nên họ đã dốt nát chỉ về năm yếu tố. Bây giờ khoa
học nói về một trăm linh tám yếu tố, cho nên dốt nát bây giờ là về một trăm
linh tám yếu tố. Bằng việc phân chia và phân tích chúng ta đã biến năm thành một
trăm linh tám, và bây giờ chúng ta dốt nát về một trăm linh tám. Và khi chúng
ta phân tích một trăm linh tám chúng sẽ trở thành cả nghìn! Các nhà khoa học đã
từng bắt đầu hỏi liệu chúng ta có giảm bớt dốt nát của mình đi không, hay là
làm tăng nó lên. Qua quá trình phân chia, dốt nát dường như co lại, nhưng đồng
thời nó cũng dường như lớn lên.
Và điều thú vị cần lưu ý là
chưa bao giờ như trước đây mà con người đã biết được nhiều như con người biết
ngày nay, nhưng cũng vậy, chưa bao giờ như trước đây con người đã cảm thấy dốt
nát như con người cảm thấy ngày nay. Nếu chúng ta hỏi nhà khoa học một thế kỉ
trước đây, ông ấy chắc đã nói rất tự tin, “Tôi biết điều này.” Nhà khoa học của
một trăm năm trước đã tự tin rằng trong một trăm năm tất cả dốt nát sẽ biến mất
khỏi thế giới. Nếu bạn hỏi nhà khoa học ngày nay, ông ấy không chắc chắn chút
nào rằng dốt nát sẽ bao giờ biến mất. Bây giờ, ông ấy thậm chí không chắc chắn
được khi nào ông ấy nói, “Tôi biết nó.” Ông ấy không tin điều này là đúng bởi
vì một điều thêm nữa đã trở nên rõ ràng cho ông ấy: mọi chắc chắn sẽ bị tan
tành trong thời gian vài năm. Ngày nay, Newton bị coi là dốt nát, và viên gạch
của những khám phá của Einstein đã bắt đầu bị vỡ vụn.
Ngày nay, các nhà khoa học
không thể viết ra được tuyển tập lớn về khoa học bởi vì vào lúc tuyển tập lớn
đó được hoàn thành, nhiều nền tảng cơ bản của khoa học đã thay đổi rồi. Điều dường
như là tri thức hôm qua đã trở thành dốt nát hôm nay. Và tri thức liên tục bị
phân chia thành biết bao nhiêu là nhánh khác nhau.
Trong quá khứ, thầy thuốc có khả
năng điều trị thuốc thang cho toàn bộ thân thể con người. Một nghìn năm trước,
nếu có một thầy thuốc trong vùng thì ông ấy là chuyên gia về mọi bệnh tật. Thế
rồi khi tri thức của chúng ta lớn lên và chúng ta nhận ra rằng ngay bản thân mắt
đã là một hiện tượng bao la - nhiều tới mức một người dành cả đời chỉ để nghiên
cứu về mắt thì người đó cũng không có khả năng biết được mọi thứ về chúng; tai
thậm chí còn là hiện tượng bao la hơn, cho nên ngay cả một người mà dành cả đời
mình cho nó thì người đó cũng chẳng bao giờ có khả năng đọc tất cả sách báo về
tai - làm sao chỉ một người có thể biết cách chữa trị cho toàn thân thể được?
Cho nên nhãn khoa đã trở thành lĩnh vực y tế tách biệt. Và thế rồi nó đã tiến
hoá tới mức với từng cơ quan đều phải có một bác sĩ riêng biệt.
Bây giờ tình huống đã đi tới điểm
mà từng việc phân chia dường như là cần thiết để được phân chia nhỏ thêm. Ngày
nay, không bác sĩ nào là bác sĩ cho toàn thân thể con người. Nếu ông ấy là thế,
ông ấy không có uy tín. Mọi người coi ông ấy như bác sĩ kiểu cổ, ông ấy không
có uy tín. Điều này là tự nhiên; nó nhất định xảy ra khi chúng ta phân chia tri
thức thành các phần tách biệt, từng việc phân chia đều tự nó bắt đầu lớn lên.
Và chung cuộc, gần đây, một nhà
tư tưởng phương Tây vĩ đại, C.P. Snow, đã viết một cuốn sách rất cách mạng mà
trong đó ông ấy nói rằng bây giờ hai nền văn hoá đã phát triển lên: những người
biết khoa học đã trở thành một chủng tộc, và những người không biết khoa học
thuộc vào chủng tộc khác. Nhưng sẽ đúng hơn nếu nói rằng ngay cả trong những
người biết về khoa học, nhiều chủng tộc đã xuất hiện.
Ngay cả trong số các nhà khoa học,
nhánh này không hiểu nhánh kia chút nào. Ngày nay nhà hoá học không thể hiểu được
theo bất kì cách nào điều nhà vật lí nói: nhà hoá học có ngôn ngữ riêng của
mình và thế giới riêng của mình và nhà vật lí cũng vậy. Chẳng có gì rõ ràng
thêm về nơi vật lí và hoá học gặp gỡ. Đại học Oxford có ba trăm sáu mươi lớp,
và ba trăm sáu mươi nhánh của khoa học cũng liên tục chia tách ra mọi ngày
thành nhiều nhánh con hơn. Nó cũng giống như cây đang lớn lên: mọi ngày nhánh mới
lại mọc ra và nhánh này phân thành đôi. Ai đó đang ngồi ở nhánh này của cây
khoa học hoàn toàn quên lãng về phần còn lại của cây.
Bây giờ có nỗi sợ rằng nếu xu
hướng này tiếp tục trong một trăm năm nữa, các nhà khoa học sẽ hoàn toàn không
có khả năng hiểu ngôn ngữ của nhau bởi vì từng nhánh mới liên tục phát triển
ngôn ngữ riêng của mình. Nhánh này của khoa học sẽ không có khả năng hiểu ra
các thiên tài của nhánh kia đang nghĩ gì. Ngày nay không một người nào trên thế
giới có thể nói rằng mình biết toàn thể khoa học, người có thể nói rằng mình hiểu
vật lí và hoá học và tâm lí học - không một người nào! Chẳng cái gì thực sự rõ
ràng về điều đang diễn ra, cách tri thức đang phát triển và nó đang đi đâu. Chẳng
ai có ý tưởng nào.
Ngày nay, nhân loại đã thấy bản
thân mình đang trong dốt nát sâu sắc. Một người biết tất cả về mắt thì chẳng biết
chút gì về các thứ khác. Người đó có tri thức trong lĩnh vực này, nhưng trong tất
cả các lĩnh vực khác người đó dốt nát. Nhà khoa học vĩ đại nhất biết nhiều về
lĩnh vực riêng của mình, nhưng về tất cả các lĩnh vực khác người đó ở trong
bóng tối, người đó chẳng biết gì về chúng cả. Khoa học là một chiều của tri thức
mà đã thất bại.
Có chiều hướng khác của tri thức
mà lời kinh này đã gọi là brahmavidya, khoa học về điều thiêng liêng. Nó hoàn
toàn khác với nỗ lực của khoa học cố để biết mọi thứ bằng phân tích. Nỗ lực của
brahmavidya là cố để biết mọi thứ trong tính toàn thể của nó, trong sự tổng hợp
của chúng. Brahman, điều thiêng liêng, là tính toàn bộ của sự tồn tại, tính
toàn thể: brahmavidya cố biết điều đó một cách trực tiếp, không phân chia; biết
điều đó trong tính toàn bộ của nó, trong tính bẩm sinh của nó, trong tính cá
nhân của nó, trong tính một của nó - không trong các bộ phận phân tách. Sự tồn
tại chỉ có thể được biết tới trong tính toàn thể của nó, một cách trực tiếp.
Tôi không cố để biết cây cối một cách tách biệt hay để trở nên quen thuộc với
con vật một cách tách biệt hay để biết con người một cách tách biệt hay để phân
chia tảng đá, núi non, các vì sao và mặt trăng. Không. Thay vì thế, tôi làm nỗ
lực để biết sự tổng hợp toàn thể của sự tồn tại một cách trực tiếp. Nỗ lực này
được gọi là brahmavidya.
Bây giờ điều rất thú vị là khi
khoa học xoay xở để đẩy dốt nát lùi lại một chút, nó tạo ra nhiều dốt nát hơn.
Brahmavidya không đẩy dốt nát lùi lại, nó phá huỷ dốt nát một cách toàn bộ.
Brahmavidya không phải là tranh đấu với dốt nát; thay vì thế, nó là việc thức tỉnh
của tri thức. Brahmavidya không thủ tiêu dốt nát, nó đơn giản đánh thức tri thức.
Điều này đáng để hiểu: khi khoa
học phân chia mọi thứ, nó cũng phân chia tâm trí con người. Đây là cách đặc biệt
hoá được sinh ra. Người nghiên cứu vật chất chỉ phát triển một phần bộ não
mình: phần được dùng trong nghiên cứu vật chất. Các nhà khoa học nói rằng các
phần khác nhau của bộ não vận hành một cách tách biệt: phần bạn cảm là tách biệt
với phần bạn làm toán, phần bạn tính toán không phải là cùng phần bạn làm nông
nghiệp, và phần bạn cai quản cửa hàng không phải là cùng phần bạn vẽ hay làm
thơ.
Bộ não con người được tạo ra từ
bẩy tỉ tế bào, và những phần khác nhau của bộ não vận hành một cách tách biệt.
Đây là lí do tại sao bạn thay đổi việc của mình thì nó lại là thảnh thơi và làm
tươi mới. Một người đang đọc sách và thế rồi người đó dừng lại và bắt đầu nghe
radio: nếu toàn thể bộ não tất cả đều làm việc đồng thời, thế thì bộ não đang đọc
sách đó sẽ là cùng bộ não nghe radio. Điều này sẽ chỉ làm cho bộ não của bạn
thêm mệt mỏi, không bớt mệt đi. Nhưng chính một phần của não đọc và phần khác
nghe radio. Khi bạn cất sách đi và bắt đầu nghe radio, phần bộ não bạn đã được
dùng để đọc sách bây giờ có thể nghỉ ngơi. Khi bạn thay đổi công việc của mình
từ việc này sang việc khác, bộ não lập tức nhận sự nghỉ ngơi. Phần đã bận vận
hành lắng xuống khi phần khác bắt đầu vận hành.
Điều thường xảy ra là khi ai đó
ngồi xuống và dừng mọi hoạt động - chẳng hạn, khi ai đó ngồi xuống để thiền -
người đó đối diện với rắc rối lớn. Người đó đối diện với rắc rối bởi vì từng
khoảnh khắc một khối lượng năng lượng của người đó đang bận rộn vận hành trong
não, còn việc dịch chuyển từ phần não này sang phần não khác cho phép nó nghỉ
ngơi; nhưng khi người đó muốn cho tất cả các bộ phận đồng thời nghỉ ngơi, thì mọi
năng lượng bắt đầu vẩn vơ và việc thảnh thơi trở thành khó khăn. Đây là lí do tại
sao lại khó thiền.
Mọi người nói rằng khi lần đầu
tiên họ ngồi thiền, họ chưa bao giờ nhận ra trước đây bao nhiêu ý nghĩ lại tới
trong tâm trí. Không có nhiều ý nghĩ nếu họ bắt đầu đào hố hay chơi bài hay hút
thuốc lá - nhưng khi họ ngồi xuống để thiền, tâm trí trở nên đầy các ý nghĩ. Lí
do cho điều này là ở chỗ bạn chưa bao giờ thực hành để cho toàn thể năng lượng
được nghỉ ngơi; bạn bao giờ cũng dịch chuyển công việc của mình từ góc não này
sang góc não khác. Nhưng năng lượng bao giờ cũng vẫn còn bị dính mắc: từ góc
này sang góc thứ hai, từ góc thứ hai sang góc thứ ba - và có cả nghìn phân chia
trong não.
Khi khoa học phân chia mọi sự ở
bên ngoài, nó ngụ ý rằng não cũng bị phân chia ở bên trong. Cho nên phía logic
của não người phát triển, nhưng tất cả các phần khác vẫn còn không phát triển.
Lần nữa, brahmavidya là khác với
điều này. Brahmavidya không phân chia sự tồn tại, do đó nó cũng không phân chia
tâm trí. Sự tồn tại ở bên ngoài là một, cho nên cái một bên trong người biết điều
này cũng trở thành một. Khi bên trong bạn bắt đầu thấy toàn thể sự tồn tại như
một, tâm trí bạn cũng trở thành một. Chính trong cái một này của tâm trí mà việc
biết, cái không đẩy lùi dốt nát lại, mà phá huỷ nó, mới được sinh ra. Tri thức
này chắc chắn phải là một loại khác.
Nếu bạn tới và hỏi Mahavira hay
Phật hay nhà tiên tri Upanishad, “Tôi bị đau răng. Tôi nên uống thuốc gì?” họ sẽ
không có khả năng trả lời câu hỏi của bạn, bởi vì đau răng nghĩa là bạn đã phân
chia cái đau. Đây là đau răng, đây là đau đầu, đây là đau chân, và theo cách
này bạn thậm chí còn phân chia cả cái đau. Vâng, nếu bạn hỏi Mahavira, “Tôi bị
đau, Tôi phải làm gì?” chỉ thế thì Mahavira mới có thể trả lời bạn được. Nhưng
nếu bạn nói bạn đau dạ dầy, Mahavira sẽ không có câu trả lời cho điều đó. Thế
thì bạn sẽ phải hỏi khoa học, nơi mọi thứ đều dựa trên sự phân chia.
Với một Mahavira hay một Phật,
mọi thứ đều không bị phân chia, không thể phân chia được. Nếu bạn hỏi cách gạt
bỏ đau chung chung, không phải là cái đau đặc biệt, thế thì Mahavira sẽ có khả
năng nói cho bạn cách làm điều đó. Nhưng nếu bạn hỏi cách chữa bệnh đặc biệt,
Mahavira sẽ chẳng thể có ích gì. Nếu bạn hỏi cách nỗi đau trong cuộc sống có thể
biến mất, Mahavira sẽ có khả năng để nói điều gì đó về điều này.
Phật đã gọi bản thân mình là thầy
chữa. Ông ấy đã nói, “Ta là thầy chữa không cho nhiều bệnh đâu, mà chỉ một bệnh
thôi. Ta là thầy chữa cho toàn thể đau khổ của cuộc sống.” Phật không thể loại
bỏ bệnh tật riêng của bạn được, nhưng ông ấy sẵn sàng chặt đi chính gốc rễ của
việc không thoải mái. Việc biết của ông ấy là đơn vị thống nhất - hiện tượng
bao hàm tất cả.
Bất kì điều gì Phật đã biết về
sự tồn tại và về bản thân mình đều không qua phân chia và phân tích, mà qua tổng
hợp. Nhà khoa học có thể cho bạn lời khuyên về cách loại bỏ đau đớn, nhưng bản
thân ông ấy không có khả năng vượt ra ngoài đau đớn. Ông ấy giúp bạn vứt bỏ
hàng nghìn đau đớn của bạn, nhưng bản thân ông ấy vẫn còn bị bao quanh bởi cả
nghìn đau đớn. Mahavira hay Phật không thể cho bạn cái gì để gạt bỏ từng cái
đau của bạn, nhưng bản thân họ đã vượt ra ngoài tất cả đau đớn - và họ có thể
nói cho bạn cách bạn cũng có thể vượt ra ngoài đau đớn nữa.
Cho nên brahmavidya là nỗ lực,
là kỉ luật, để biết điều thiêng liêng, biết toàn thể vũ trụ, toàn thể sự tồn tại
như một toàn thể thống nhất. Khi bạn bắt đầu biết tới sự tồn tại như một, tính
một cũng được tạo ra bên trong bạn. Toàn thể tâm trí trở thành một thể thống nhất,
và tâm trí nhất thể này là điều an bình là gì. Sự nhất thể của tâm trí là việc
dừng lại từ bên trong tất cả các con sóng và tất cả các gợn sóng.
Thế thì trong cuộc truy tìm của
mình về brahmavidya, khoa học về chân lí tối thượng, Maharishi Ashvalayana đi tới
Chúa thượng Brahma, thần sáng tạo, với thái độ của đệ tử, mang samidha, biểu tượng
của nhận biết về sự dốt nát của mình...
Hai hay ba điều cần được hiểu ở
đây: “...Trong việc truy tìm về brahmavidya, Maharishi Ashvalayana đi tới Chúa
thượng Brahma, thần sáng tạo, với thái độ của một đệ tử, mang theo samidha, biểu
tượng của nhận biết về dốt nát riêng của mình.” Ashvalayana là một maharishi, một
hiền nhân vĩ đại, nhưng dầu vậy ông ấy vẫn đang trong cuộc truy tìm
brahmavidya. Điều đó ngụ ý là người ta không đạt tới brahmagyan, việc nhận ra về
chân lí tối thượng, chỉ bằng đức hạnh của việc là một maharishi. Ở đây, là một
maharishi nghĩa là biết mọi thứ, nhưng lại không biết thực. Ashvalayana biết mọi
thứ qua lời. Ông ấy biết tất cả những điều kinh sách đã nói, và ông ấy quen thuộc
với các học thuyết; do đó ông ấy mới là một maharishi. Ông ấy có tri thức,
nhưng không có việc biết.
Cho nên là học giả là một điều:
bạn có thể biết mọi thứ, nhưng tất cả đều được vay mượn, nó không phải là của
riêng bạn. Bạn có thể trở thành một maharishi và dầu vậy vẫn dốt nát về
brahmagyan. Bạn có thể có tri thức và vậy mà không có trí huệ. Bạn có thể có
quen thuộc sâu sắc với điều người khác đã biết, và bạn có thể không có hiểu biết
gì hay kinh nghiệm gì của riêng mình. Thế thì ngay cả một maharishi cũng sẽ phải
tiếp cận với thái độ của đệ tử.
Thái độ của đệ tử là gì? Đệ tử
là người biết rằng mình không biết. Người đó nói, “Xin giúp cho tôi biết.” Đây
là lí do tại sao rất khó để học giả trở thành đệ tử. Người đó có thể đi bất kì
đâu với thái độ của thầy, nhưng rất khó cho người đó đi với thái độ của đệ tử.
Người đó nghĩ mình biết, cho nên làm sao người đó có thể đi với thái độ của đệ
tử được? Một ngày nào đó người đó có thể học với thái độ của đệ tử, người đó sẽ
đương đầu với một điều thật rõ ràng: “Bất kì điều gì mình đã biết đều mang tính
trí tuệ, không mang tính tồn tại. Mình đã không hiểu ra, mình chỉ nghe thấy. Điều
đó là trong trí nhớ của mình. Chỉ quen thuộc bên ngoài đã xảy ra cho mình và
mình đã không đi vào trong nó.” Do đó điều trở thành rất khó cho bác học, cho học
giả là đi tới việc biết thực. Nó trở thành khó bởi vì thái độ của đệ tử là điều
khó nắm bắt. Có thái độ của đệ tử là đi với hiểu biết rằng bạn không biết, rằng
bạn dốt nát - chỉ thế thì bạn mới có thái độ của đệ tử.
Samidha là một biểu tượng. Mang
samidha nghĩa là một người đi theo đường của mình, người đó đang đi tới việc
tuyên bố rằng người đó không biết và người đó đã tới để học. Nó là biểu tượng;
nó là biểu tượng mang nghĩa, “Tôi không cần phải nói cho thầy và thầy không cần
hỏi tại sao tôi đã tới. Tôi đã tới chân thầy như người dốt nát, để học.”
Nhưng cúi mình dưới chân ai đó
như người dốt nát không chỉ là biểu tượng, nó là trạng thái nội tâm rất sâu sắc.
Tới như người dốt nát nghĩa là, “Mình sẽ tìm để biết điều mình không biết.” Khi
bạn đi như người thông thái, bạn chỉ hỏi điều bạn nghĩ bạn đã biết.
Mọi người hỏi các câu hỏi không
phải bởi vì họ không biết, mà bởi vì họ cho rằng họ đã biết. Họ chỉ kiểm tra
xem liệu bạn có biết hay không. Điều bạn biết có thể đúng chỉ nếu nó phù hợp với
điều họ nghĩ họ đã biết. Nếu nó không phù hợp, thế thì bạn phải sai. Đây không
phải là thái độ của đệ tử. Bất kì khi nào ai đó hỏi với ý tưởng rằng mình đã biết
và bây giờ người đó muốn xem liệu người khác cũng có biết không, thì không có
việc tìm kiếm trong việc hỏi này, chỉ có sự sẵn sàng tranh luận. Thế thì, không
đối thoại nào có thể xảy ra được.
Mahakashyapa là một học giả lớn
khi ông ấy đi tới Phật lần đầu tiên. Ông ấy nói với Phật, “Tôi tới thầy với vài
câu hỏi.”
Phật hỏi, “Những câu hỏi đó nảy
sinh từ tri thức của ông hay từ dốt nát của ông? Ông hỏi bởi vì ông biết cái gì
đó, hay bởi vì ông không biết gì?”
Mahakashyapa nói, “Điều đó liên
quan gì tới nó?”
Phật đáp, “Có chứ, có liên quan
nhiều tới nó chứ. Nếu ta không nhận biết về ý định của ông khi hỏi, câu trả lời
của ta sẽ không có liên quan gì tới ông. Nếu ông đã tới hỏi bởi vì ông đã biết,
thế thì ông đang phí thời gian một cách không cần thiết. Ông đã biết, chuyện đó
chấm dứt! Nhưng nếu ông đã tới đây mà không biết, thế thì ta có thể nói điều gì
đó cho ông.”
Mahakashyapa nói, “Tình trạng của
tôi ở đâu đó lưng chừng - tôi biết đôi điều, và đôi điều tôi không biết.”
Thế rồi Phật nói, “Làm ra danh
sách bất kì cái gì ông không biết, và chúng ta có thể nói về cái đó. Bất kì cái
gì ông biết chúng ta có thể gạt nó sang bên.”
Mahakashyapa bắt đầu hỏi Phật về
điều ông ấy không biết, nhưng khi ông ấy hỏi ông ấy bắt đầu nhận ra rằng mình
thậm chí chẳng biết điều mình nghĩ là mình đã biết. Trong một năm ông ấy đã sống
gần Phật và đã hỏi nhiều điều, và tất cả các câu hỏi của ông ấy đều đã bị tan
biến.
Thế rồi Phật nói, “Bây giờ ta
muốn ông nói cho ta về những điều ông nói ông đã biết.”
Mahakashyapa nói, “Tôi chẳng biết
gì cả. Tôi càng trở nên nhận biết, tri thức của tôi càng bị tan ra hơn. Tôi chẳng
biết gì.”
Khi Ouspensky tới Gurdjieff lần
đầu tiên, Gurdjieff bảo ông ta, “Bất kì điều gì ông biết, đem nó cho ta, viết lên
một mẩu giấy. Chúng ta sẽ không bao giờ nói về những điều đó. Điều ông biết,
ông biết rồi; vấn đề qua rồi.” Ông ấy đưa cho Ouspensky mẩu giấy nào đó.
Ouspensky là một bác học lớn, ông ấy là một học giả lớn, cũng như Mahakashyapa.
Trước khi ông ấy gặp Gurdjieff ông ấy đã viết một cuốn sách rất vĩ đại, Tertium
Organum, về điều cuốn sách này nói - và tôi cũng đồng ý với điều này - đó là một
trong ba cuốn sách có ý nghĩa đã được viết ra trong toàn thể lịch sử của phương
Tây. Ông ấy đã viết nó trước khi ông ấy gặp Gurdjieff. Gurdjieff là nhà huyền
môn vô danh chẳng ai đã từng nghe nói tới.
Cho nên khi Ouspensky tới
Gurdjieff, ông ấy đã tới ông này như một người biết. Ouspensky đã nổi tiếng thế
giới, Gurdjieff gần như vô danh. Người bạn nào đó trong làng ông ấy đã nhắc tới
Gurdjieff và ông ấy có thời gian rỗi, cho nên ông ấy nghĩ ông ấy sẽ đi và gặp
ông này. Khi ông ấy tới, Gurdjieff đang ngồi im lặng với hai chục người bạn nào
đó. Ouspensky cũng ngồi một chốc, nhưng thế rồi ông ấy bắt đầu cảm thấy không
thoải mái. Không ai giới thiệu ông ấy cho Gurdjieff để nói cho ông này biết ông
ấy là ai, bản thân Gurdjieff lại không hỏi gì về điều đã đưa ông ấy tới đó. Tất
cả hai mươi người đang hiện diện cũng liên tục ngồi im lặng. Sau vài phút,
Ouspensky trở nên ngày một không thoải mái hơn: ông ấy không thể bỏ đi mà cũng
không thể nói được.
Trong hai mươi phút hay khoảng
thế ông ấy đã chịu đựng điều đó, nhưng rồi ông ấy thu lấy dũng cảm và nói với
Gurdjieff, “Tôi xin lỗi, nhưng điều gì đang diễn ra ở đây thế? Thầy thậm chí
không hỏi tôi là ai.”
Gurdjieff ngước mắt lên, nhìn
vào Ouspensky và nói, “Ông đã bao giờ tự hỏi ông là ai chưa? Và nếu bản thân
ông còn chưa hỏi, sao ta bận tâm? Hay nếu ông biết ông là ai, thế thì nói cho
ta!”
Ouspensky cảm thấy rằng chính nền
đất đang biến mất dưới chân ông ấy. Mãi tới khoảnh khắc đó, ông ấy đã nghĩ rằng
ông ấy biết mình là ai. Ông ấy nhìn vào điều đó từ mọi góc, nhưng ông ấy không
thể tìm ra được manh mối nào về mình là ai.
Thế rồi Gurdjieff nói, “Đừng bồn
chồn. Nếu ông biết cái gì đó khác, nói về cái đó.” Khi không có lời đáp lại,
Gurdjieff đưa cho ông ấy một tờ giấy và nói, “Có thể ông cảm thấy lúng túng, vậy
đi sang phòng bên và viết ra mọi điều ông biết rồi đem nó lại cho ta. Chúng ta
sẽ không bao giờ nói lần nữa về những điều này. Chúng ta sẽ chỉ nói về điều ông
không biết.”
Ouspensky đi sang phòng bên.
Sau đó ông ấy viết, “Lúc đó là đêm lạnh giá, nhưng mồ hôi toát ra trên trán
tôi. Đó là lần đầu tiên tôi bồn chồn tới mức mồ hôi ướt sũng. Lần đầu tiên, tôi
khám phá ra rằng tôi chẳng biết gì cả. Mặc dầu tôi đã viết về Thượng đế và tôi
đã viết về linh hồn, tôi chẳng biết gì về cả linh hồn lẫn Thượng đế. Mọi lời của
tôi bắt đầu nổi lên ngay trước mắt tôi. Những cuốn sách riêng của tôi vây quanh
tôi tứ phía và bắt đầu chế nhạo tôi; những cuốn sách riêng của tôi bắt đầu hỏi
tôi, ‘Ouspensky, ông biết gì nào?’”
Ông ấy quay lại Gurdjieff với tờ
giấy trống rỗng. Đặt nó xuống dưới chân Gurdjieff, ông ấy nói, “Tôi hoàn toàn
trống trơn. Tôi chẳng biết gì. Tôi ở đây để học.”
Tờ giấy trắng đó chính là
samidha của Ouspensky, và ông ấy đặt nó dưới chân Gurdjieff.
Samidha là biểu tượng của một
thái độ. Đất nước này đã thấy hàng nghìn Ouspenskys và Mahakashyapas. Hiện tượng
này đã trở thành biểu tượng: bất kì khi nào ai đó đi tới ai đó khác trong khiêm
tốn toàn bộ... khiêm tốn toàn bộ nghĩa là bạn đi tới ai đó để học, trong chấp
nhận tuyệt đối dốt nát riêng của mình. Khi điều này xảy ra, bạn đang mang
samidha. Samidha là biểu tượng rằng không cần thảo luận nào nữa. Sẽ không cần
phải tốn hai giờ đó trôi qua giữa Gurdjieff và Ouspensky. Một người tới với
samidha là đang tuyên bố, “Tôi dốt nát. Tôi không biết. Tôi sẽ không hỏi từ tri
thức của mình, mà từ dốt nát của tôi. Tôi đã tới trong việc tìm kiếm câu trả lời.
Tôi đã tới như một đệ tử, để học. Tôi không có ham muốn dạy. Tôi không ở đây để
nghiên cứu, tôi không ở đây để thử thầy. Tôi đơn giản không biết!”
Ashvalayana khiêm tốn nói:
“Chúa thượng, xin dạy con bí mật
vĩnh hằng và con đường cao quí của brahmavidya...”
Tôi đã nói rằng brahmavidya là
nghệ thuật biết sự tồn tại trong tính toàn thể của nó. Nhưng Ashvalayana nói,
“bí mật vĩnh hằng.” Đây là điểm rất thú vị, bởi vì làm sao cái gì đó vẫn còn là
bí mật mãi mãi được? Lúc này hay lúc khác nó phải được lộ ra. Bằng không làm
sao bạn thậm chí biết rằng nó tồn tại, hay làm sao bạn sẽ biết rằng nó là bí mật?
Điều chúng ta gọi là bí mật đôi khi cũng được biết tới. Ngay cả tôi thì thào điều
gì đó vào tai ai đó, thế nữa tôi cũng đang nói nó. Và cho dù tôi nói nó là bí mật,
mọi điều tôi nói là, “Đừng nói nó cho bất kì ai khác” - nhưng nó đã được nói ra
rồi, nó hiển nhiên đã được nói rồi. Ngay cả brahmavidya cũng đã được nói đi nói
lại - lặp đi lặp lại. Nhưng Ashvalayana đang nói “cái là bí mật vĩnh hằng,” cái
liên tục là bí mật cho dù nó được nói ra.
Đây là cái gì đó cần được hiểu.
Ashvalayana biết nhiều, ông ấy là một maharishi. Ông ấy có tri thức của tất cả
những điều đã từng được nói ra, nhưng ngay cả với tri thức của mình ông ấy cũng
vẫn không biết tới chân lí. Mọi thứ đều đã được biết tới và vậy mà... dốt nát vẫn
còn lại. Cho nên một điều phải đã trở nên rất rõ ràng cho Ashvalayana: người ta
không trở thành người biết chỉ bởi việc được nói cho về cái gì đó. Điều đó đã
được nói trong mọi kinh sách, điều đó đã được nói bởi tất cả các nhà tiên tri
và hiền nhân; tất cả những người đã biết đều đã nói nó, vậy mà nó vẫn còn không
được nói ra. Nỗ lực đã được thực hiện để nói nó, và vậy mà nó vẫn còn không được
nói, và khoảnh khắc điều gì đó được nói ra, nó trở thành cái gì đó khác.
Điều đó cũng giống như khi chúng
ta nhúng chiếc que vào nước - nó có vẻ như bị gãy cong. Nó không bị cong, nhưng
nó có vẻ như bị cong. Theo cùng cách đó, khoảnh khắc bạn đưa chân lí vào lời,
nó trở thành bị bóp méo. Khi nó rơi vào trong trung gian của lời, nó bị bóp méo
- và vậy mà không có cách nào khác ngoài việc nói nó bằng lời. Cho nên nó chắc
chắn được nói ra, nhưng nó vẫn còn không được nói. Cái vẫn còn không được nói
chính là bí mật mãi mãi là gì. Ở đây, “bí mật” không ngụ ý cái gì đó phải được
giữ bí mật: nó ngụ ý cái vẫn còn là bí mật. Ở đây, “bí mật” không có nghĩa
“Không nói nó,” nó có nghĩa là cái không thể nào được nói ra. Bạn nói nhiều tuỳ
ý, nhưng cái mà không thể được nói ra chính là brahmavidya - cái khó nắm được
nghĩa mãi mãi.
Nhưng thế rồi có khó khăn vô
cùng, bởi vì nếu nó không thể được nói ra, thế thì cho dù Ashvalayana hỏi và
Brahma nói, dầu vậy, làm sao nó có thể được nói ra?
Ở đây điều tốt là lưu ý tới một
điểm khác: điều không thể nói được qua lời có thể được truyền qua hướng dẫn,
qua các chỉ dẫn khác. Lời là trung gian rất nghèo nàn, cái nghèo nàn nhất.
Ai đó hỏi Sariputta, “Ông đã học
từ Phật như thế nào?”
Sariputta nói, “Tôi nghe điều
Phật nói, nhưng tôi đã không học từ điều đó. Tôi học từ điều Phật hiện hữu, mặc
dầu không có cách nào để nghe nó. Điều Phật nói là một việc, nhưng ông ấy hiện
hữu là việc hoàn toàn khác. Tôi nghe tất cả những điều Phật đã nói, nhưng tôi uống
tất cả những điều ông ấy hiện hữu. Tôi đã thấm đẫm tất cả những điều ông ấy hiện
hữu bởi việc ở gần ông ấy. Tôi đã cho phép sự hiện diện của ông ấy, sự hiện hữu
của ông ấy được chạm vào tôi, được thấm vào tôi.”
Bí mật và bí ẩn vĩnh hằng có thể
được truyền, được nhận qua việc chạm vào sự hiện diện đó. Nhưng để sẵn có cho sự
hiện diện đó, để có khả năng uống sự hiện diện đó, cánh cửa của tâm bạn cần được
mở ra.
Huyền Trang tới Ấn Độ. Ở Trung
Quốc ông ấy đã biết tới cấu chuyện về một ngôi đền Ấn Độ. Ông ấy tới Ấn Độ với
nhiều lí do, và ngôi đền đó đã là một trong các lí do. Ông ấy nghe nói rằng
trong thung lũng nào đó ở Kashmir có một ngôi đền ẩn kín chuyên về Phật mà
trong đó không có tượng Phật nào và không có di vật nào của Phật: không sách Phật,
không kinh sách, không khất sĩ, không tu sĩ. Ngôi đền này chỉ có mỗi bức tường
trống ẩn kín trong hang, nhưng Phật sẽ xuất hiện trên bức tường đó cho bất kì
ai ngồi trước bức tường trong thái độ tuyệt đối khiêm tốn, chờ đợi. Huyền Trang
sang Ấn Độ với nhiều lí do, và một trong chúng là để tìm bức tường đó, bởi vì
khi có liên quan tới bản thân Phật, ông ấy đã qua đời lâu từ trước rồi.
Huyền Trang cũng là một
maharishi. Tương truyền rằng vào thời đó, ông ấy là một học sĩ vĩ đại về kinh
sách Phật ở Trung Quốc. Hoàng đế Trung Quốc cấm ông ấy sang Ấn Độ bởi vì ông ấy
là học sĩ vĩ đại thế: nếu ông ấy rời khỏi Trung Quốc, ông ấy có thể không trở về
hay ông ấy có thể không có khả năng trở về. Đó sẽ là tổn thất lớn lao cho Trung
Quốc. Nhưng khổ của cũng là khổ của Ashvalayana: ông ấy biết mọi thứ, vậy mà
ông ấy chẳng biết gì. Bởi vì ông ấy đã không được đặc ân được sống trong sự hiện
diện của Phật, không kinh nghiệm nào về tính thượng đế đã đi vào ông ấy, không
tia sáng nào đã đi vào ông ấy từ bất kì đâu. Cho nên, ngoại trừ sự khuấy động của
lời Phật trong tâm trí ông ấy, chẳng cái gì khác đã xảy ra cho ông ấy.
Cho nên Huyền Trang bí mật trốn
đi. Hoàng đế chống lại điều đó: ông ấy trở nên rất giận dữ và báo động cho toàn
thể quân đội để ngăn cản Huyền Trang không cho ra khỏi Trung Quốc. Ông ấy bị
nguy hiểm tính mạng và không ai sẵn sàng giúp ông ấy. Ông ấy gặp khó khăn lớn
khi trốn tránh lính của quân đội Trung Quốc. Hai hay ba lần ông ấy suýt chết:
ông ấy bị bắt nhưng thế rồi ai đó đã gia ân... khi thấy tình yêu của ông ấy với
Phật, khi nghe lời cầu nguyện của ông ấy muốn tới mảnh đấy nơi Phật đã từng bước
đi và những con đường mà trên đó Phật đã đi qua... có lẽ hương thơm nào đó của
sự hiện diện của Phật có thể vẫn còn lơ lửng trên những con đường đó... “để tôi
ngồi, để tôi lăn trong cát bụi nơi Phật đã bước qua - có lẽ cát bụi này có thể
có tin tức về Phật. Trong kinh sách, không có tin tức về ông ấy. Để tôi nằm ra
và ngủ dưới những cây nơi ông ấy đã ngồi - có lẽ những cây đó đã giữ lại cái gì
đó của sự hiện diện của ông ấy. Để tôi cúi mình dưới chân Phật ở những chỗ ông ấy
đã bước qua, chỗ ông ấy ngồi, chỗ ông ấy đi.” Thấy tình cảm của ông ấy, các
binh lính đều gia ân cho ông ấy và để ông ấy đi.
Theo cách này ông ấy đã bằng
cách nào đó trốn tránh được nanh vuốt của những kẻ đối lập mình và rời khỏi
Trung Quốc, nhưng thế rồi ông ấy đi vào một nước nhỏ có tên là Tursayan. Nhà
vua bị ấn tượng bởi con người này tới mức ông ta chạm chân ông ấy trong sự kính
trọng và trở thành đệ tử của ông ấy. Ông ta nói, “Bây giờ tôi sẽ không cho phép
thầy đi từ đây nữa.”
Huyền Trang tương truyền đã phải
cầu nguyện, “Bằng cách nào đó tôi đã thoát được khỏi kẻ thù của mình, nhưng bây
giờ làm sao tôi sẽ được tự do khỏi bạn bè?” Đệ tử của ông ấy, nhà vua, nói, “Bằng
bất kì cái gì, tôi sẽ không để thầy đi khỏi cung điện này! Không có thầy, tôi sẽ
không sống nổi!” Khi Huyền Trang liên tục khăng khăng đòi đi, nhà vua đặt lính
gác khắp xung quanh cung điện. Ông ta sẽ ngồi dưới chân của Huyền Trang và khi
Huyền Trang định bước lên chỗ ngai vàng, nhà vua sẽ nằm ra trên sàn và trở
thành bậc thang cho ông ấy. Huyền Trang có thể bước lên ngai vàng để chuyển
trao bài nói chỉ sau khi đã bước qua nhà vua, khiêm nhường của nhà vua tới mức
độ đó. Nhưng gắn bó của ông ta cũng lớn tới mức chung cuộc, khi Huyền Trang
không đồng ý ở lại, ông ta nói, “Đệ tử khiêm tốn này của thầy nói rằng dù bất
kì điều gì xảy ra, thầy không được phép rời khỏi đây.”
Trong bốn ngày, Huyền Trang ngồi
nhắm mắt, không ăn không uống, cầu nguyện Phật, “Bây giờ tất cả mọi thứ đều bên
ngoài tôi. Bây giờ tôi sẽ tới ngôi đền đó chỉ nếu thầy đem tôi đi.”
Tâm của vua Tursayan cảm động,
và Huyền Trang được phép đi tới Ấn Độ. Ông ấy đi tới ngôi đền ấy... lúc đó ngôi
đền ấy không còn nữa rồi. Truyền thuyết về ngôi đền đó là ở chỗ bất kì ai tới
đó sẽ không bao giờ quay về nữa, cho nên không ai sẽ đi tới đó. Đó là một thung
lũng xa xăm, ẩn kín - nhưng ngôi đền hấp dẫn làm sao! Nó chỉ là một bức tường,
bức tường trống! Không ai đã từng ở đó trong nhiều năm. Huyền Trang nói, “Ta
không thể nhận được món quà nào lớn hơn việc biến mất trước bức tường đó,” thế
là ông ấy đi tới đó. Ông ấy đã xoay xở vượt qua khó khăn muôn trùng để tìm ra
nó, bởi vì không có đường đi tới nó. Đường và lối đã biến mất bởi vì không ai
đã tới đó nhiều năm rồi... nhưng ông ấy đã tới đó.
Ông ấy ở đó một tuần. Ông ấy
khóc, ông ấy kêu, ông ấy đấm ngực, ông ấy la và ông ấy gào để Phật xuất hiện
trước ông ấy. Thế rồi ông ấy mất tiếng và nước mắt cũng cạn khô; ông ấy thậm
chí không thể khóc được thêm nữa. Ông ấy liên tục ngồi ở đó, khóc thầm bên
trong. Toàn thể bản thể bên trong của ông ấy đang khóc. Ông ấy không còn nước mắt,
không còn tiếng nói - chỉ còn một ham muốn: rằng Phật phải xuất hiện cho ông ấy.
Vào ngày thứ tư ông ấy cảm thấy
dường như một hình dạng nào đó, giống như một mảnh mây tí xíu, trôi qua trên tường:
điều đó đem lại cho ông ấy hi vọng mênh mông. Sau đó ông ấy không thể nào ngủ
được cả đêm cả ngày, bởi vì ai biết khi nào Phật có thể đột nhiên xuất hiện?
Ông ấy có thể bỏ lỡ.
Vào ngày thứ bẩy, hình dạng của
Phật xuất hiện trên bức tường này. Huyền Trang hoàn toàn được thoả mãn. Ông ấy
đã được biến đổi, ông ấy trở thành người khác.
Nhiều thế kỉ đã trôi qua từ thời
Phật sống trong thân thể, và bây giờ hình ảnh của ông ấy đang xuất hiện trên bức
tường này... mặc dầu hình ảnh này không phát xuất từ Phật, nó bắt nguồn từ tâm
trí riêng của Huyền Trang. Nhưng với nhiều khao khát thế, nhiều buông xuôi thế,
lỗ hổng thời gian biến mất và Huyền Trang đã trải nghiệm rằng ông ấy ở gần Phật.
Nhiều thế kỉ biến mất, khoảng cách hàng nghìn dặm tan biến, và không khoảng
cách nào còn lại thêm nữa. Việc nhận ra sự gần gũi này: rằng ông ấy ở gần Phật,
rằng ông ấy ở gần hình dạng vật lí của Phật, đã làm biến đổi ông ấy. Điều ông ấy
đã không biết qua kinh sách ông ấy đã trải nghiệm qua sự gần gũi này - và nó chỉ
là bức tường trống!
Điều tôi đang nói là ở chỗ cho
dù bạn ở gần Phật, nếu tâm bạn không cởi mở thế thì bạn ở gần bức tường trống,
trắng thôi. Và nếu tâm bạn cởi mở, thế thì ngay cả việc ở ở gần bức tường trống,
trắng bạn vẫn có thể ở gần Phật. Hiện tượng sâu sắc của việc biết xảy ra không
chỉ qua lời, mà qua tính cởi mở.
“Chúa thượng, xin dạy con bí mật
vĩnh hằng và con đường cao quí của brahmavidya, con đường mà các hiền nhân bao
giờ cũng bước đi, và qua nó trí huệ đã làm tan biến các hành động xấu quá khứ của
họ và đã kinh nghiệm chân lí tối thượng.”
Đại Chúa thượng Brahma nói: “Để
kinh nghiệm thực tại tối thượng, người ta trước hết phải nương náu ở tin cậy,
thành tâm, thiền và yoga.”
Cố hiểu bốn từ này. Shraddha,
tin cậy, là điều đầu tiên được nhắc tới. Nghĩa của tin cậy là gì? Từ này quen
thuộc với chúng ta, nhưng bản chất của tin cậy lại tuyệt đối không được biết tới.
Tin cậy là hiện tượng rất phức tạp, rất phức tạp. Nó phức tạp bởi vì chúng ta
thậm chí không có khái niệm nhỏ nhất về nghĩa của tin cậy là gì. Chúng ta hiểu
nó từ hai hay ba góc độ khác nhau.
Thứ nhất: tin vào điều chúng ta
có thể tin thì không phải là tin cậy. Chấp nhận điều trí tuệ chúng ta có thể chấp
nhận không phải là tin cậy. Tin điều có thể được hỗ trợ bởi lí trí của chúng ta
không phải là tin cậy. Tin cậy mà đồng ý với điều trí tuệ chúng ta là gì thì sẽ
không sẵn lòng chấp nhận, tin cậy đồng nghĩa với lí trí của chúng thì sẽ không
sẵn lòng chấp nhận. Đó là khả năng duy nhất dường như là điều không thể được...
việc chấp nhận cái không thể được là tin cậy. Đây là lí do tại sao tin cậy lại
là táo bạo tối thượng.
Ai đó hỏi Soren Kierkegaard,
“Sao ông tin cậy vào Thượng đế?”
Kierkegaard nói, “Nếu tôi biết
lí do, đã không cần tin cậy rồi. Có thể Thượng đế thấy ra điều là một ngày nào
đó tôi không tìm thấy lí do, bởi vì vào ngày tôi có lí do, tin cậy sẽ biến mất.
Tôi không có lí do.” Kierkegaard cũng nói rằng không ai biết được lí do, nhưng
chừng nào con người còn sống bên trong các giới hạn của lí do, người đó sống
bên trong trí tuệ. Khi người đó nối với cái ở bên ngoài lí do, tin cậy bắt đầu.
Dường như không có lí do chút
nào để chấp nhận sự tồn tại của Thượng đế. Nếu bạn chỉ tìm kiếm lí do, khoa học
sẽ cho bạn lí do về mọi thứ. Nếu bạn chỉ tìm kiếm sự hợp lí, tôn giáo không cần
cho việc đó; triết học là đủ, nó cho bạn tất cả mọi sự hợp lí. Nhưng cho dù bạn
có đi tới biết tất cả các lí do, thế thì sự tồn tại của những lí do này sẽ dường
như ở bên ngoài lí do.
Tôi hiện hữu - đây là tính toàn
bộ mà không có lí do. Cho dù tôi thấy rằng tôi hiện hữu bởi vì các kiếp sống
quá khứ của mình, thế thì dường như không có lí do cho các kiếp sống quá khứ.
Dù tôi có thể lùi xa bao nhiêu cũng chẳng thành vấn đề - tôi có thể liên tục
làm cho từng kiếp sống trước của mình thành lí do cho kiếp sống này - dầu vậy
toàn thể dây chuyền của tất cả các kiếp sống trước của tôi sẽ không có lí do.
Sao cây này tồn tại? Bạn có thể
phát hiện ra rằng nó hiện hữu bởi vì hạt mầm đã được trồng - nhưng thế thì tại
sao hạt mầm có đó? Chúng ta chỉ đẩy lí do lùi lại thêm: hạt mầm đã ở trên cây
nào đó và thế rồi cây đã ở trong hạt mầm nào đó... và dây chuyền này là vô tận.
Nhưng tại sao dây chuyền các biến cố này có đó ngay chỗ đầu tiên? Điều rất đáng
quan tâm là lí do chỉ đem bạn vào dây chuyền nhiều lí do hơn. Cũng như tôi đã
nói rằng khoa học chỉ đẩy dốt nát ra xa thêm một bước, việc tìm kiếm các lí do
cũng chỉ đẩy dốt nát đi xa thêm một bước: lí do có thể được tìm thấy ở một bước
xa hơn - nhưng câu hỏi này vẫn còn như nó vậy.
Toàn thể luồng cuộc sống là tuyệt
đối không có lí do vậy mà nó vẫn hiện hữu. Cái mà không có lí do cũng tồn tại.
Mối quan hệ tình yêu với nó được gọi là tin cậy.
Chính chìa khoá thứ nhất là về
tin cậy. Tính tôn giáo thậm chí không thể bắt đầu mà không có tin cậy. Không có
tin cậy, những điều khác là có thể, nhưng không có tính tôn giáo. Do đó tính
tôn giáo là hiện tượng bí ẩn nhất trên thế giới. Trong con mắt của thế giới,
mang tính tôn giáo là tương đương với điên khùng. Nếu người ta không thực sự
điên khùng, người ta không thể trở nên mang tính tôn giáo được. Tin cậy là điên
khùng hoàn toàn. Nghĩa của tin cậy là ở chỗ bạn lấy bước nhảy lượng tử. Khi tất
cả các logic và lí do đã bị vét cạn, ở đó bạn lấy cú nhảy; chỗ con đường chấm dứt,
ở đó bạn lấy bước nhảy.
Hiểu điều này là tốt: logic là
tuyến tính, tin cậy là bước nhảy. Logic là tuyến tính, nó bao giờ cũng được nối
với cái đã xảy ra trước đó, nó bao giờ cũng được nối với quá khứ. Logic nói tại
sao là cái gì đó; nó tìm lí do, lí do bao giờ cũng sẵn có. Tin cậy nói: nó hiện
hữu, nó chỉ hiện hữu, và không có lí do tại sao. Cho nên nếu một người quá
logic người đó sẽ không có khả năng đi vào cho dù là yêu thông thường, bởi vì
không có lí do cho yêu. Tất cả các lí do mọi người tìm ra cho yêu của họ đều là
bịa đặt ra về sau. Yêu xảy ra trước hết, thế rồi bạn tìm lí do cho nó về sau. Bạn
thấy một người, gợn sóng nào đó nảy sinh bên trong bạn, và yêu xảy ra.
Nhưng con người mang tính hợp
lí - con người thậm chí không thể yêu mà không có lí do về nó. Con người tìm lí
do: nhân cách, khuôn mặt đẹp hay hành vi đẹp, và vân vân. Con người cố tìm lí
do nào đó, nhưng điều này tất cả đều là về sau, nó tới muộn về sau. Trước hết
yêu xảy ra; lí do theo sau. Thế rồi bạn nghĩ lí do tới trước và yêu đã theo
sau. Nhưng hiện tượng yêu xảy ra theo cách dường như chiếc xe bò tới trước và
con bò kéo tới sau. Thế rồi bạn gắn mọi thứ vào theo trật tự nào đó: bạn đặt
con bò vào trước và chiếc xe đằng sau nó; thế thì nó tất cả đều suôn sẻ và có
trật tự. Nhưng tất cả những điều có ý nghĩa trong thế giới này xảy ra mà chẳng
có lí do.
Tin cậy sẽ là điều rất khó cho
những người chưa bao giờ rơi vào yêu. Trong cuộc sống nơi ngay cả một hiện tượng
thông thường như yêu đã không xảy ra, thì hiện tượng phi thường như tin cậy sẽ
không xảy ra đâu. Yêu nghĩa là điều không thể được đã xảy ra giữa hai người.
Yêu nghĩa là bước nhảy của điều không thể được đã xảy ra giữa hai người - và
tin cậy là việc xảy ra của điều không thể được giữa cá nhân và cái toàn thể.
Khi yêu xảy ra giữa bạn và cái toàn thể, nó là tin cậy; khi cùng hiện tượng này
xảy ra giữa người này và người khác, nó là yêu.
Yêu có giới hạn, nhưng tin cậy
không có giới hạn. Do đó yêu bị cạn kiệt, nhưng tin cậy không bao giờ cạn kiệt.
Yêu xảy ra, nở hoa và tàn phai, nhưng tin cậy không bao giờ tàn phai. Yêu chỉ
là tạm thời - khoảnh khắc đó được kéo căng ra bao lâu cũng chẳng thành vấn đề -
nhưng tin cậy là vĩnh hằng. Cho nên người đi tìm cái vĩnh hằng trong yêu là
đang nhìn vào chỗ sai. Người đó nên tìm cái vĩnh hằng chỉ trong tin cậy.
Tin cậy... Chìa khoá thứ hai là
bhakti, sùng kính. Tin cậy là việc xảy ra bên trong, sùng kính là cách diễn đạt
của nó. Tin cậy xảy ra bên trong, tin cậy là kinh nghiệm bên trong. Nếu tin cậy
đã xảy ra cho một người, người đó được tràn đầy với cảm giác đó về điều không
thể được, cái không biết và sự tồn tại bí ẩn mà chúng ta gọi là yêu; nếu người
đó bắt đầu thấy người yêu trong tảng đá và cây cối và các vì sao, người đó bắt
đầu thấy người bạn tối thượng hay người yêu tối thượng đang ẩn kín ở mọi nơi,
thế thì đó là tin cậy - và sùng kính là cách diễn đạt của nó.
Bây giờ dù người đó đi bất kì
đâu, ngồi hay đứng, dù người đó làm bất kì cái gì, tin cậy của người đó sẽ biểu
lộ trong mọi thứ... trong mọi thứ! Biểu lộ này là sùng kính. Ngay cả khi một
người như vậy đi tới cây cối, người đó sẽ ngồi dưới cây chỉ sau khi chào mừng
nó một cách kính cẩn. Nếu cây cho người đó bóng mát người đó sẽ để lại sau đó
việc biết ơn nó.
Gần đây, một hiện tượng rất lạ
đã xảy ra trong khoa học phương Tây. Một nhà khoa học người Nga và một nhà khoa
học Mĩ cả hai cùng phát minh một thứ rất kì lạ bằng những con đường khác nhau.
Tôi muốn nhắc tới nó cho bạn. Cả hai nhà khoa học, chẳng hề quen biết nhau, đã
riêng biệt làm những thực nghiệm để tìm ra liệu có thể đo được cảm giác bên
trong của người không. Một số thực nghiệm đã thành công. Nếu một người bỗng
nhiên đầy sợ hãi, nhịp tim người đó, nhịp thở của người đó và mạch của người đó
sẽ thay đổi, các tuyến mồ hôi của người đó sẽ bắt đầu vận hành khác biệt, chất
bài tiết thân thể của người đó sẽ thay đổi; nhiều thay đổi hoá chất sẽ xảy ra
trong người đó. Và các nhà khoa học bây giờ biết rằng cũng có thay đổi tức thời
trong luồng điện thân thể, điều chúng ta gọi là prana. Tất cả những điều này có
thể được đo, và bây giờ có những dụng cụ qua đó tất cả những điều đó có thể được
đo.
Giả sử bạn đang ngồi với dụng cụ
này được nối với thân thể bạn qua dây, và bỗng nhiên ai đó chĩa súng vào ngực bạn:
dụng cụ này sẽ chỉ ra khối lượng sợ hãi mà bạn đang trải qua. Thế rồi giả sử kẻ
cướp có súng đó bắt đầu cười và nói anh ta chỉ đùa thôi: dụng cụ này sẽ lập tức
chỉ ra rằng nỗi sợ của bạn đang biến mất, rằng bạn thảnh thơi, rằng tất cả luồng
năng lượng và các quá trình hoá học đang trở lại hình mẫu bình thường của
chúng. Hay, nếu người yêu của bạn mới vào phòng, điều đó nữa cũng sẽ chỉ ra
trên dụng cụ này.
Thế rồi các nhà khoa học này
nghĩ rằng điều đó là hiểu được với con người, nhưng liệu có thể đo được cho con
vật không? Vậy thì chúng ta có khả năng hiểu con vật nữa. Chừng nào chưa có điều
này chúng ta còn không thể biết được con vật, chúng ta chẳng có ý tưởng nào về
cái gì xảy ra bên trong chúng. Nhưng vì kinh nghiệm bên trong có thể đo được
trong con người, nên người ta cũng thử cho con vật nữa. Người ta khám phá ra rằng
có thể đo được con vật thậm chí còn chính xác hơn, bởi vì những thay đổi xảy ra
trong chúng thậm chí mang tính chất tuyên bố nhiều hơn. Cho nên các nhà khoa học
này nghĩ, “Liệu có thể đo được cây không? Những thay đổi cũng sẽ xảy ra trong
cây chứ?” Họ đã không nghĩ như vậy, nhưng họ đã làm thực nghiệm để xem liệu nó
có thể được không, và họ đã ngạc nhiên.
Họ gắn dây đo vào cây, vào bụi
hồng, điều sẽ báo cho dụng cụ cái gì đang xảy ra cho cây. Thế rồi nhà khoa học
này đem một cái cưa điện tới gần cây này, và trong khi ông ta đang nghĩ về việc
cưa cây, bỗng nhiên mắt ông ta bắt gặp cỗ máy: kim của nó chuyển động nhanh
sang vùng sợ. Ông ta phân vân. Ông ta đã từng cho rằng cái gì đó có thể xảy ra
khi ông ta thực sự cưa cây, nhưng ông ta mới chỉ mang cưa tới gần cây thôi. Ông
ta chỉ mới nghĩ, một ý tưởng trong tâm trí ông ta, cưa cây. Cây có bắt được ý
nghĩ và cảm giác của chúng ta không? Và điều đáng ngạc nhiên là độ mãnh liệt của
tín hiệu do cây phát ra thậm chí còn rõ ràng hơn với con vật. Điều này làm cho
nhà khoa học đó hứng khởi thực hiện hàng trăm thực nghiệm, bởi vì ông ta không
thể nào tin được vào mắt mình - rằng chỉ mới từ ý nghĩ của ông ta, còn chưa
thành hành động thực tế, cây đã bị ảnh hưởng và đã có thay đổi trong chính bản
thể của cây.
Thế rồi ông ấy đã làm một thực
nghiệm duy nhất khác. Có hai cây, một cây ông ấy không định cưa còn cây kia được
để gần để cưa, nhưng dụng cụ được gắn vào cây thứ nhất. Khi ông ấy đi tới cây
thứ hai với ý định chặt nó, cây thứ nhất cho tín hiệu sợ hãi! Khi ông ấy bắt đầu
chặt cây thứ hai, cây thứ nhất cho chỉ dẫn sợ hãi và đau đớn và cũng có thay đổi
hoá học trong cây này.
Đây là những điều có thể được
đo bằng dụng cụ khoa học, nhưng chúng cũng đã được biết tới qua kinh nghiệm về
tin cậy. Những người đầy sùng kính tin cậy cũng kinh nghiệm cùng cuộc sống vũ
trụ trong từng chiếc lá, trong từng hòn đá - và sùng kính là diễn đạt về kinh
nghiệm đó. Người đó cư xử dường như toàn thế giới là người yêu của mình, dường
như có tình bạn bên trong với toàn thể sự tồn tại này.
Cho nên một người tôn thờ cây
có vẻ điên khùng đối với bạn. Điều đó có vẻ thế đối với bạn bởi vì bạn không nhận
biết về khoa học bên trong. Có thể là bản thân con người không nhận biết về điều
đó, rằng người đó cũng có thể chỉ làm điều đó theo truyền thống - nhưng thế thì
nó cực kì vô nghĩa. Bạn có quyền gọi một người là tuyệt đối điên khùng khi người
đó ra chào dòng sông với đôi tay khoanh lại, nhưng bạn đúng chỉ nếu người đó
đang làm điều đó theo thói quen. Nếu điều đó nảy sinh từ tâm người đó, thế thì
bạn hoàn toàn sai. Loại quan hệ này có thể nảy sinh ngay cả với sông, loại quan
hệ này có thể nảy sinh ngay cả với cây cối, hay với tượng đá; nó có thể nảy
sinh với bất kì cái gì. Một khi sùng kính tin cậy được sinh ra, thế thì sùng
kính sẽ theo nó như cái bóng.
Hiền nhân của Upanishad này đã
đặt thiền sau sùng kính. Nếu có sùng kính trong tâm bạn, thế thì bạn không thể
tưởng tượng được nó sẽ đưa tâm trí bạn vào thiền dễ dàng thế nào. Nếu có tin cậy,
thế thì sùng kính theo nó như cái bóng. Nếu có tin cậy và sùng kính theo nó như
cái bóng, thế thì thiền sẽ theo như hương thơm. Thiền trở thành khó bởi vì bạn
không biết tin cậy cũng chẳng sùng kính và bạn phải cố thiền trực tiếp. Nhưng cố
thiền trực tiếp sẽ tạo ra khó khăn, bởi vì thế thì bạn phải đặt nỗ lực rất lớn
vào thiền và dầu vậy kết quả sẽ không được là bao bởi vì hai chất liệu căn bản
không có đó.
Người tràn đầy tình yêu với
toàn thể sự tồn tại, người ngồi và đứng và người thậm chí nháy mắt bằng sự sùng
kính, người có từng và mọi cử chỉ đầy những sùng kính hướng tới thế giới, sẽ
không có vấn đề gì khi đi vào thiền. Người đó đơn giản nhớ tới thiền và người
đó sẽ ở trong thiền bởi vì không có xung đột, không có căng thẳng trong người
đó. Căng thẳng đi vào khi bạn nghĩ rằng thế giới này là kẻ thù. Căng thẳng tới
khi bạn cảm thấy sự tồn tại là đối lập với bạn, nơi đấu tranh liên tục tiếp diễn
mãi, chiến tranh. Không căng thẳng, người sùng kính đi vào trong thiền, giống
như thế đó.
Đây là lí do tại sao người sùng
kính đã đi xa thế khi nói, “Thiền gì, công phu tâm linh gì?” Có lí do cho điều
này. Người sùng kính nói, “Thiền gì, công phu gì?” bởi vì sùng kính là đủ. Và họ
đang nói đúng. Họ đúng đấy: không phải bởi vì thiền là vô nghĩa, mà bởi vì thiền
xảy ra cho họ một cách tự phát. Một Meera nhảy múa và cô ấy đi vào thiền; cô ấy
chưa bao giờ học kĩ thuật thiền nào cả. Một Chaitanya chơi kirtan, ca hát và nhảy
múa sùng kính, và anh ta trượt vào thiền. Anh ta không có khái niệm thiền: “Cái
gì? Thiền sao?”
Một sự vụ rất thú vị xảy ra
trong cuộc sống của Chaitanya. Chaitanya nghe nói rằng một người yogi lớn đang
cắm trại ở gần làng này, và mọi người tới ông ấy để học thiền. Chaitanya nghĩ,
“Mình cũng nên tới người yogi này để học thiền.” Nhưng ông ta thực sự ngạc
nhiên, bởi vì khi ông ta tới đó, người yogi sụp xuống chân Chaitanya! Chaitanya
nói, “Ông làm gì thế? Tôi đã tới để học thiền của ông! Tôi đã nghe nói rằng nhiều
người tới để học thiền từ ông, cho nên tôi nghĩ rằng tôi cũng nên tới học.”
Người yogi trả lời, “Nếu ông muốn
học thiền, thế thì ông phải tới trước khi sùng kính xảy ra cho ông. Ông đã
trong thiền rồi, nhưng ông thậm chí còn không nhận biết về điều đó!”
Người sùng kính không biết rằng
mình đang trong thiền bởi vì với người đó thiền là sản phẩm phụ; nó theo người
đó. Nó có đó như kết quả tự phát từ tin cậy và sùng kính của người đó.
Và chính điều cuối cùng là
yoga. Khi người ta đã làm chủ thiền, yoga sẽ tới theo cách riêng của nó. Nhưng
mọi người làm chính điều ngược lại: mọi người bắt đầu bằng yoga và thế rồi họ
thực hành thiền. Thế thì họ nghĩ họ có thể đem sùng kính tới bằng cách nào đó,
thao túng việc này bằng cách này cách nọ, và họ trông đợi bằng cách nào đó tìm
ra tin cậy ở chỗ cuối cùng. Nhưng khi tâm trí con người trượt vào trong thiền,
thế thì thân thể người đó sẽ đi vào yoga. Yoga là việc xảy ra trong thân thể
còn thiền là việc xảy ra trong tâm trí.
Hiểu điều đó theo cách này: tin
cậy mang tính vũ trụ, nó là ý thức về cái toàn thể; sùng kính là cái gì đó của
linh hồn, ý thức về cá nhân. Thiền đặt quan hệ với tâm trí, yoga đặt quan hệ với
thân thể. Điều chúng ta làm là chúng ta bắt đầu với thân thể, thế rồi chúng ta
đi vào trong tâm trí, thế rồi đi tới linh hồn và thế rồi tới cái toàn thể.
Nhưng hiền nhân này nói: Trước hết tin cậy hướng tới cái toàn thể, thế rồi sùng
kính trong linh hồn, thế rồi thiền trong tâm trí và thế rồi yoga trong thân thể.
Nếu người ta tiếp tục theo thứ tự này thế thì từng bước tiếp sẽ trở nên dễ dàng
hơn và tự nhiên hơn. Nếu người ta đi theo trình tự ngược của điều này, từng bước
tiếp sẽ liên tục trở nên khó khăn hơn. Với người bắt đầu bằng yoga, thiền sẽ
khó khăn hơn cho người đó. Đây là lí do tại sao những người bắt đầu với yoga
thường dừng lại tại yoga. Họ dừng lại tại điệu bộ thân thể và tất cả nghỉ ngơi,
và họ chưa bao giờ chạm tới thiền. Nếu bạn bắt đầu với thiền, sùng kính sẽ là
khó. Do đó thiền nhân thường dừng lại ở thiền và họ không bao giờ đạt tới sùng
kính. Và người bắt đầu bằng sùng kính sẽ thường dừng lại ở sùng kính: người đó
sẽ không có khả năng đạt tới tin cậy tối thượng. Cuộc hành trình này bắt đầu từ
trung tâm bên trong, và trung tâm đó được gọi là tin cậy. Vòng tròn thứ hai là
sùng kính, vòng tròn thứ ba là thiền và thứ tư là yoga.
Nếu tâm trí đã đi vào thiền,
thân thể sẽ đi vào yoga theo cách riêng của nó. Nhiều người tới tôi và báo cáo,
“Khi chúng tôi thiền, tất cả mọi điệu bộ thân thể đều bắt đầu xảy ra theo cách
riêng của chúng, và chúng tôi chẳng có ý tưởng nào về điều đang xảy ra.” Vâng,
chúng sẽ xảy ra. Khi tâm trí thay đổi qua trạng thái thiền bên trong, thân thể
sẽ phải thay đổi trạng thái của nó ngay lập tức và điều chỉnh bản thân nó tương
ứng theo tâm trí.
Bốn chìa khoá này là rất quí
giá, trình tự của chúng là quí giá nhất.
Bắt đầu bằng tin cậy đi...
Đủ cho sáng nay.
Bây giờ, chúng ta sẵn sàng cho
việc thiền. Đứng dãn rộng ra, tạo ra không gian quanh bản thân bạn. Không ai dời
khỏi chỗ của mình. Đừng chạm vào người khác bằng việc chạy lăng xăng đây đó; nhảy
tại chỗ của bạn thôi. Dãn rộng ra. Các bạn, những người có thể tới đây như khán
giả, đi ra vào ngồi lên các tảng đá, đừng đứng đây ở ngay giữa. Phải không có
khán giả ở giữa, chỉ những người định thiền mới ở đây. Bất kì bạn nào muốn thiền
khi ngồi thì ngồi xuống ở ngoại vi và làm điều đó. Khăn bịt mắt đã tới, cho nên
các bạn cần khăn lấy một cái. Bất kì ai cảm thấy thích cởi quần áo ra thì có thể
làm vậy.
Được rồi, bây giờ đeo khăn bịt
mắt lên!
Xem tiếp Chương 3 - Quay về Mục lục
0 Đánh giá