Read more
Một hôm vua nước Yên tới thăm thầy Triệu
Châu, ông ấy thậm chí không đứng dậy khi ông ấy thấy vua tới.
Nhà vua hỏi, "Cái nào cao hơn, vua thế
gian, hay 'vua của pháp'?"
Triệu Châu đáp, "Trong các vua của người,
ta cao hơn, trong các vua của pháp, ta cũng cao hơn."
Nghe câu trả lời đáng ngạc nhiên này, nhà
vua rất hài lòng.
Ngày hôm sau một tướng tới thăm Triệu Châu,
ông ấy không chỉ đứng dậy từ chỗ ngồi khi ông ấy thấy vị tướng tới, mà còn bày
tỏ cho vị tướng lòng hiếu khách theo mọi cách khác với điều ông ấy đã bày tỏ
cho nhà vua.
Sau khi vị tướng đã ra về, sư hầu hạ Triệu
Châu hỏi ông ấy, "Sao thầy đứng dậy từ chỗ ngồi khi một người ở cấp thấp
hơn tới gặp thầy, vậy mà thầy đã không làm như vậy với người ở cấp cao nhất?"
Triệu Châu đáp, "Ông không hiểu. Khi
người hạng cao nhất tới gặp ta, ta không đứng dậy từ chỗ ngồi; khi họ ở hạng
trung, ta đứng dậy; nhưng khi họ ở hạng thấp nhất, ta đi ra ngoài cổng để đón họ."
Con người sống trong trạng thái
rất lộn ngược. Do đó, bất kì khi nào có một thầy chứng ngộ, hành động của thầy,
lời của thầy, hành vi của thầy, tất cả đều có vẻ ngớ ngẩn với người thường.
Jesus bị hiểu lầm bởi lẽ đơn giản là người có mắt đang nói cho những người mù.
Socrates không được hiểu bởi cùng lí do, vì ông ấy đang nói cho những người
hoàn toàn điếc. Và đấy cũng là hoàn cảnh cho mọi chư Phật của mọi nước, của mọi
giống nòi. Và, không may là, điều này sẽ vẫn còn là hoàn cảnh mãi mãi. Nó là
cái gì đó trong chính bản chất của mọi sự.
Con người là vô ý thức; con người
hiểu ngôn ngữ của vô ý thức. Và bất kì khi nào ai đó nói từ đỉnh cao của ý thức,
điều đó trở thành hoàn toàn không thể nào hiểu được, khó hiểu. Người đó ở xa
xôi thế! Đến lúc lời người đó đạt tới thung lũng tối tăm của vô ý thức của
chúng ta, chúng ta đã bóp méo chúng tới mức chúng không còn tham chiếu chút nào
tới nguyên bản nữa.
Thầy đôi khi có vẻ điên, đôi
khi phi lí, đôi khi ương ngạnh. Nhưng lí do duy nhất mà thầy không thể cư xử
như bạn, mà thầy không thể là một phần của tâm trí đám đông, là ở chỗ thầy đã
trở nên thức tỉnh và đám đông vẫn còn ngủ say.
Để hiểu thầy bạn phải học sự
thông cảm lớn: chỉ điều đó sẽ tạo ra chiếc cầu. Đó là điều mối quan hệ của đệ tử
với thầy là gì. Bạn có thể nghe thầy mà không là đệ tử. Bạn sẽ nghe thấy lời
nhưng bạn sẽ bỏ lỡ nghĩa. Bạn sẽ nghe bài ca nhưng bạn sẽ bỏ lỡ âm nhạc. Bạn sẽ
nghe luận cứ nhưng bạn sẽ bỏ lỡ kết luận. Bạn sẽ biết điều thầy đang nói nhưng
bạn sẽ không có khả năng thấy nơi thầy đang chỉ dẫn.
Để hiểu ý nghĩa - điều là vô lời
- để hiểu nghĩa, một loại quan hệ khác toàn bộ được cần. Đó không phải là quan
hệ của người nói và thính giả: đó là quan hệ của hai người yêu. Nó phải là chuyện
tình; chỉ thế thì mới có đủ thông cảm để có chiếc cầu, để có trao đổi.
Và một khi thông cảm có đó,
không còn xa xôi gì mấy với sự thấu cảm. Thông cảm có thể được biến đổi thành
thấu cảm rất dễ dàng; thực ra, nó thay đổi thành thấu cảm theo cách riêng của
nó. Cũng như bạn gieo hạt mầm và vào đúng thời gian chúng mọc lên và xuân tới
và có nhiều hoa, gieo hạt mầm của thông cảm đi - tức là, khai tâm vào tính đệ tử
- thế thì chẳng mấy chốc sẽ có hoa của thấu cảm.
Trong thông cảm vẫn còn chút
khoảng cách. Bạn có thể nghe thấy - bạn có thể nghe được chút ít rõ hơn trước
đây, bạn có thể hiểu rõ ràng hơn trước đây - nhưng dầu vậy mọi thứ ở trong trạng
thái mơ hồ: rõ ràng hơn trước nhưng chưa rõ ràng tuyệt đối; trong trạng thái
tranh tối tranh sáng. Đêm không còn nữa nhưng mặt trời còn chưa mọc và trời rất
lờ mờ. Bạn có thể thấy nhưng bạn không thể giải đoán mọi thứ một cách chính
xác.
Thông cảm nghĩa là bây giờ
không có khoảnh cách nào nữa. Bây giờ đệ tử bị chìm ngập trong thầy - anh ta đã
trở thành người sùng kính. Bây giờ thầy bị chìm ngập trong đệ tử này; họ không
phải là những thực thể tách rời nữa. Họ đã đạt tới cùng nhịp của bản thể, họ đập
rộn ràng trong sự đồng bộ.
Thế rồi có hiểu biết và hiểu biết
đó giải thoát, và hiểu biết đó là ngay tức khắc. Bạn thấy thầy, bạn nhìn vào mắt
thầy, bạn nghe lời thầy, bạn nhìn thầy chuyển động, cử chỉ của thầy... và chúng
ngay lập tức được hiểu mà không có việc dịch nào của tâm trí. Tâm trí vận hành không
nhiều hơn kẻ môi giới. Đó là giao cảm trực tiếp - thậm chí không phải là trao đổi
mà là giao cảm.
Bước đầu tiên là bước của học
trò, tò mò nhưng vẫn là khán giả, xa xôi, thu thập thông tin, tri thức. Bước thứ
hai là bước của đệ tử, không còn là khán giả mà là người tham gia, không còn
quan tâm tới tri thức mà quan tâm vô cùng tới việc biết. Và bước thứ ba là bước
của người sùng kính, hoàn toàn là một với thầy, cùng chia sẻ bản thể thầy, uống
từ nguồn không cạn của thầy, say sưa - say với điều thiêng liêng.
Chỉ người sùng kính mới hiểu một
cách tuyệt đối, đệ tử hiểu chút ít, học trò chỉ nghe đơn thuần các lời.
Nhớ lấy, bạn phải trải qua ba
giai đoạn này nữa. Và điều đó tất cả phụ thuộc vào bạn: người ta có thể vẫn còn
là học trò mãi mãi. Nếu bạn giữ khoảng cách, nếu bạn sợ tới gần, bạn sẽ ở đây
và vậy mà không ở đây.
Lại gần hơn đi - gần hơn về tâm
linh. Đem bản thể của bạn, không sợ sệt, tới gần thầy hơn, gần ánh sáng của thầy
hơn. Vâng, ánh sáng đó không chỉ là ánh sáng, nó là lửa nữa; nó sẽ thiêu rụi bạn.
Bị thiêu rụi đi, vì trong lửa đó có hi vọng lớn về tái sinh.
Những câu chuyện Thiền nhỏ này
trên bề mặt có vẻ giống như các giai thoại thường - chúng không vậy đâu. Chúng
mang ý nghĩa mênh mông. Trước khi chúng ta đi vào trong câu chuyện này, đôi điều
phải được hiểu.
Hôm nọ đã có câu hỏi từ
Satsanga. Anh ấy nói, "Osho ơi, tại sao thầy không ngoại giao thêm một
chút với các chính khách và tu sĩ? - vì điều đó sẽ đỡ cho chúng tôi khỏi nhiều
rắc rối."
Tôi có thể hiểu điều anh ấy ngụ
ý; tôi có thể hiểu lo nghĩ của anh ấy. Anh ấy muốn tôi ngoại giao thêm chút ít
- nhưng thầy không thể có tính ngoại giao được. Nó chưa bao giờ như vậy, điều
đó là không thể được. Tính ngoại giao là sự tinh ranh, tính ngoại giao là nghệ
thuật dối trá. Tính ngoại giao là cách thuyết phục người khác mà không nói cho
họ sự thực. Tính ngoại giao là trò chơi. Chính khách chơi trò chơi; nhà huyền
môn không thể chơi nó được.
Nhà huyền môn là người nói thẳng
nói thật. Người đó thẳng thắn, với bất kì giá nào. Người đó không thể lừa dối
được, người đó không thể dối trá được, người đó không thể giữ yên tĩnh được. Nếu
người đó thấy cái gì đó người đó sẽ nói điều đó, và người đó sẽ nói nó như nó vậy.
Gurdjieff hay nói, đôi khi với
cả những người rất lỗi lạc, nổi tiếng theo cách nào đó này khác - những tác giả
lớn, hoạ sĩ, nhà thơ, chính khách, những người chi phối thế giới này, những bản
ngã lớn... Ông ấy hay nói cho những người này điều rất có ý nghĩa - nhớ điều
đó. Đột nhiên ông ấy sẽ nói với họ, "Ông có mẽ ngoài rất hay."
Bây giờ nói với một chính
khách, với tổng thống một nước hay với thủ tướng hay với nhà vua, "Ông có
mẽ ngoài rất hay," là mời rắc rối tới. Và Gurdjieff đã sống cả đời ông ấy
trong rắc rối. Nhưng không có cách khác.
Ông ấy cũng thường nói, nhiều
hơn một lần... Bất kì khi nào kẻ bản ngã nào đó hỏi ông ấy, "Thầy có yêu
tôi không? Thầy có thích tôi không?" đây là câu trả lời của ông ấy:
"Với điều ông có thể là vậy, tôi chẳng có gì ngoài lòng nhân từ, nhưng như
ông vậy tôi ghét ông - về với bà ông đi!"
Đây không phải là tính ngoại
giao: đây là tạo ra kẻ thù.
Jesus phải đã là nghệ sĩ thực sự
lớn trong việc tạo ra kẻ thù vì ông ấy chỉ mới ba mươi ba tuổi khi ông ấy bị
đóng đinh, và chỉ có ba năm làm việc vì ông ấy xuất hiện ở tuổi ba mươi. Mãi
cho tới lúc đó ông ấy đã ở cùng các trường phái huyền bí, đi khắp thế giới tới
Ai Cập, tới Ấn Độ, và có thể thậm chí tới Tây Tạng và tới Nhật Bản.
Do đó Kinh Thánh không có bản
ghi nào về những năm chuẩn bị của ông ấy; bản ghi chép là rất đứt quãng. Cái gì
đó về thời thơ ấu của ông ấy được nói, rất mảnh mẩu. Và chỉ một lần ông ấy được
nhắc tới: khi ông ấy mười hai tuổi và ông ấy bắt đầu tranh luận với các tu sĩ
trong đền - có vậy thôi. Thế rồi có kẽ hở mười tám năm... không cái gì được nhắc
tới.
Bây giờ một người như Jesus
không thể chỉ sống cuộc sống bình thường trong mười tám năm và thế rồi đột
nhiên bùng nổ trong Christ tính; điều đó là không thể được. Mười tám năm này
ông ấy đã đi với các thầy khác nhau, với các hệ thống khác nhau, nhận khai tâm
vào các trường phái huyền bí khác nhau, học bất kì cái gì sẵn có, được hoà điệu
với nhiều thầy nhất có thể được.
Ông ấy xuất hiện ở tuổi ba mươi
và đến tuổi ba mươi ba ông ấy bị đóng đinh. Trong ba năm ông ấy thực sự đã làm
việc tốt! Ông ấy nhanh! Bạn không thể nghĩ được rằng ông ấy có tính ngoại giao;
ông ấy là người phi ngoại giao nhất đã từng có.
Thực ra, đó là cách thức những
người đã thức tỉnh cư xử.
Tính ngoại giao đích xác là gì,
Satsanga?
"Bố ơi, tính ngoại giao là
gì?" bé Bill hỏi, vừa mới từ trường về nhà.
"Thế này, con trai, nó giống
như thế này," bố nó đáp. "Nếu như bố nói với mẹ con, 'Mặt em làm dừng
đồng hồ lại,' điều đó sẽ là ngu xuẩn. Nhưng nếu bố nói, 'Khi anh nhìn em, thời
gian đứng tĩnh lặng,' đó là tính ngoại giao!"
Vâng, bạn sẽ thích tôi có tính
ngoại giao thêm một chút; điều đó sẽ đỡ được nhiều rắc rối. Nhưng điều đó sẽ đỡ
cho bạn cả về chân lí nữa, nhớ lấy. Chân lí mang tới nhiều rắc rối. Nó nhất định
là vậy vì mọi người sống trong dối trá, và khi bạn mang chân lí vào trong thế
giới, dối trá của họ, cuộc sống của họ bắt rễ trong dối trá, phản ứng. Đối
kháng lớn nhất định xảy ra. Và mọi người như họ vậy, trong vô thức của họ,
không thể sống mà không có dối trá.
Friedrich Nietzsche là đúng.
Ông ấy nói, "Xin đừng phá huỷ dối trá của mọi người, ảo tưởng của họ, vì nếu
phá huỷ ảo tưởng của họ, họ sẽ không có khả năng sống chút nào; họ sẽ sụp đổ."
Họ sẽ không tìm ra cái gì đáng để sống. Họ sống vì các ảo tưởng; ảo tưởng giữ
cho họ hi vọng. Họ sống trong ngày mai, điều không bao giờ tới. Họ sống trong
tham vọng điều không bao giờ được hoàn thành; nhưng dù được hoàn thành hay
không, qua những tham vọng đó và ham muốn và ảo tưởng và mong đợi và hi vọng, họ
có thể kéo lê các kiếp sống của họ tới nấm mồ. Nếu bạn phá huỷ ảo tưởng của họ,
họ có thể đơn giản chết bất đắc kì tử ở đây và bây giờ vì thế thì sẽ không ích
gì mà sống.
Và bất kì khi nào bạn nghĩ tới
tự tử, nhớ lấy, tại sao bạn nghĩ tới tự tử? Hi vọng nào đó đã biến thành chua
cay, mong đợi nào đó đã biến thành thất vọng, ham muốn nào đó đã chứng tỏ là vô
tích sự. Bạn đã trở nên nhận biết; ngay cả trong vô nhận biết của bạn, chút ít
tia sáng của nhận biết đã xuyên thấu vào bạn. Bạn đã thấy, có thể chỉ trong một
khoảnh khắc, một thoáng nhìn, cũng hệt như tia sét trong đêm tối. Với khoảnh khắc
đó tất cả đều sáng và bạn đã thấy rằng cách bạn đang sống là giả và không có việc
hoàn thành nếu bạn sống theo cách giả. Lập tức ý tưởng về tự tử nảy sinh trong
bạn.
Ngày càng nhiều người tự tử
ngày nay, nhiều hơn bao giờ. Nhiều người tự tử ở phương Tây hơn ở phương Đông.
Điều đó có vẻ rất kì lạ, rất phi logic. Nó không nên như vậy, vì ở phương Đông
mọi người đang chết đói nhưng họ không tự tử. Ở phương Tây họ có mọi thứ mà con
người bao giờ cũng ham muốn. Mọi người có hai nhà - một nhà ở thành phố, một
nhà ở vùng núi non hay bãi biển, ở thôn quê. Họ có ga ra 2 ô tô... và mọi loại
vật dụng mà công nghệ đã làm thành sẵn có.
Lần đầu tiên, phương Tây đã
thành công trong việc giàu có, nhưng nhiều người đang tự tử ở đó hơn ở phương
Đông. Tại sao? - bởi lẽ đơn giản là phương Đông có thể vẫn còn hi vọng và
phương Tây đang trở nên nhận biết rằng không có hi vọng. Khi bạn không có cái
gì đó bạn có thể hi vọng về nó; khi bạn có nó, làm sao bạn có thể hi vọng cái
gì hơn nữa? Đồ vật có đó và không cái gì đã xảy ra qua nó. Bạn có tiền, bạn có
vợ ngoan, con cái, chồng, danh giá, kính trọng - và đột nhiên bạn trở nên nhận
biết trong giầu có này rằng sâu bên dưới bạn là hổng hoác, nghèo nàn, là kẻ ăn
xin và không gì khác. Toàn thể nỗ lực để đạt tới mọi thứ này đã thất bại. Mọi
thứ có đó, nhưng không hoàn thành nào đã xảy ra qia chúng. Đây là nguyên nhân của
nhiều tự tử ở phương Tây.
Ở phương Tây nữa, nhiều người
Mĩ tự tử hơn bất kì ai khác vì họ là giầu có nhất, họ ở nhiều nhất trong trạng thái
choáng: "Mọi hi vọng mà vì chúng, chúng ta đã sống hàng thế kỉ đều được
hoàn thành, và vậy mà chẳng cái gì được hoàn thành." Và điều này sẽ là vậy
ngày càng nhiều hơn: ngày càng nhiều người sẽ tự tử.
Friedrich Nietzsche là đúng:
người thường không thể sống mà không có ảo tưởng. Đừng lấy đi ảo tưởng của người
đó khỏi người đó!
Và thầy làm đích xác điều đó:
thầy cố lấy đi ảo tưởng của bạn. Thầy tạo ra tình huống trong đó, bình thường,
bạn sẽ tự tử. Nhưng nếu bạn đủ may mắn để có giao cảm với thầy, cùng tình huống
đó tạo ra tính chất sannyas. Nó là cùng tình huống, cùng cuộc khủng hoảng!
Đây là quan sát của tôi: rằng
tính chất sannyas thực xảy ra chỉ khi bạn đã đi tới bờ của tự tử. Khi bạn thấy
rằng thế giới bên ngoài bị kết thúc, thế thì chỉ có hai phương án còn lại: hoặc
là tự tử và được kết thúc vì không có gì để sống thêm nữa, hoặc quay vào trong.
"Thế giới bên ngoài đã thất bại, bây giờ chúng ta thử cái bên trong":
đó là tính chất sannyas. Tính chất sannyas và tự tử là hai mặt của cùng một đồng
tiền. Nếu bạn được hội tụ và bị ám ảnh với bên ngoài, thế thì tự tử; nếu bạn
chùng lỏng chút ít, linh hoạt, thế thì tính chất sannyas.
Nhưng thầy không thể có tính
ngoại giao được. Thầy phải tạo ra khủng hoảng này trong đó tự tử là có thể - và
cũng cả tính chất sannyas nữa, cũng biến đổi nữa, cũng việc sinh mới nữa. Nhưng
việc sinh mới là có thể chỉ khi bạn chết đi cái cũ, khi bạn chết đi quá khứ.
Hình dáng đẹp của Cynthia đã được
lẩn vào trong bộ áo choàng khít thân hình đẹp và cô ấy làm điều đó thành việc gợi
chú ý trong ngày hẹn hò của cô ấy lặp đi lặp lại mãi suốt cả tối.
Cuối cùng, qua chén rượu cuối
cùng trong căn hộ của mình, anh ta nói, "Em cứ nói mãi về bộ quần áo suốt
cả tối rồi. Em gợi sự chú ý của anh tới nó trước tiên khi chúng ta gặp nhau để
uống nước, lại nhắc tới nó lần nữa ở bữa ăn tối, và lại lần nữa ở rạp hát. Bởi
vì chúng ta ở đây một mình trong phòng áp mái của anh, em nói gì nếu chúng ta bỏ
chủ đề này đi?"
Đây là tính ngoại giao! Nhưng
thầy đơn giản nói trắng ra. Chân lí của họ là hoàn toàn trần trụi; liệu bạn
thích hay không thích không phải là vấn đề. Họ không thể thoả hiệp với cái
thích của bạn được. Nếu họ bắt đầu thoả hiệp với cái thích của bạn, họ không thể
giúp đỡ gì được cho bạn. Thoả hiệp với bạn nghĩa là thoả hiệp với giấc ngủ của
bạn, vô ý thức của bạn, tính máy móc của bạn. Thoả hiệp với bạn nghĩa là dừng
đánh thức bạn dậy. Điều đó là không thể được.
Do đó, Satsanga, tôi không thể
có tính ngoại giao được. Hơn nữa, tôi không phải là người Anh.
Mới hôm nọ tôi đã nói về bà mẹ
của Anurag đáng thương - một quí bà Anh hoàn hảo! - nhưng bà ấy không ở đây,
như được mong đợi. Bà ấy đã từng ở đây chỉ một lần trong nhiều tuần. Bà ấy đơn
giản liên tục ngồi trong khách sạn, hoàn toàn chán - như mọi người Anh đều
chán! Anurag đáng thương - tôi gọi cô ấy là "đáng thương" vì cô ấy
đang trải qua cái gì đó thực sự khủng khiếp. Bây giờ tôi phải gọi nó là khủng
khiếp, tôi không thể có tính ngoại giao được! Cô ấy đã thu xếp để cho mẹ cô ấy
có thể nghe băng, và sau khi bà ấy nghe băng Anurag hỏi bà ấy, "Mẹ nghĩ gì
về điều đó?" Bà ấy nói, "Con yêu, mẹ cảm thấy buồn ngủ."
Đây là tính ngoại giao!
Mọi người lắng nghe chỉ cái họ
muốn nghe; bằng không họ rơi vào giấc ngủ. Ít nhất họ có thể nghĩ cả nghìn thứ
khác, và điều đó nữa là một loại ngủ vì họ không còn nghe.
Tôi phải cứng rắn! Tôi phải cứng
rắn nhất có thể được vì giấc ngủ của bạn là sâu và nó phải bị đập tan tành. Tôi
phải đập đầu bạn bằng búa, bằng không bạn sẽ không thức dậy. Trong nhiều thế kỉ
bạn đã từng ngủ; việc ngủ đã trở thành bản tính của bạn. Bạn đã quên mất nhận
biết là gì, thức tỉnh nghĩa là gì.
Có ba kiểu người, và thầy cư xử
khác đi tương ứng theo kiểu. Kiểu cao nhất là người đã nếm trải niềm vui của vô
trí. Thầy cư xử với kiểu người đó theo cách khác toàn bộ, vì thầy biết người đó
sẽ hiểu.
Trạng thái của vô trí là trạng
thái cao nhất. Bạn ở tại đỉnh núi khi bạn ở trong trạng thái vô trí, khi bạn
tuyệt đối im lặng, khi không cái gì khuấy động bên trong bạn, không ý tưởng,
không ý nghĩ, khi tâm trí đã dừng tạo ra tiếng ồn, tiếng ồn thường xuyên. Tâm
trí huyên thuyên nhiều tới mức nó sẽ không cho phép bạn nghe bất kì cái gì. Khi
việc huyên thuyên của tâm trí dừng lại, lần đầu tiên bạn trở nên nhận biết về
âm nhạc của bản thể riêng của bạn. Và lần đầu tiên bạn cũng trở nên nhận biết về
âm nhạc mà chính là sự tồn tại này.
Khi một người như vậy tiếp cận
tới thầy, thầy cư xử theo cách khác toàn bộ - vì thầy biết bất kì cái gì thầy
làm, thầy sẽ được hiểu. Giao cảm là có thể vì không có rào chắn.
Kiểu người thứ hai là người sống
ở giữa, giữa kiểu thứ nhất và thứ ba. Người đó có tâm trí thiền - chưa phải là
vô trí, nhưng là tâm trí có tính thiền. Tức là, người đó đang trên đường. Người
đó đã học cách im lặng một chút, hài hoà hơn một chút so với người khác. Tiếng ồn
có đó, nhưng nó là tiếng ồn nơi xa; người đó đã có khả năng tách bản thân mình
ra khỏi nó. Người đó đã tạo ra một chút ít khoảng cách giữa bản thân mình và
tâm trí mình; người đó không còn bị đồng nhất với tâm trí. Người đó không nghĩ,
"Mình là tâm trí." Tâm trí có đó, vẫn còn huyên thuyên, vẫn giở thủ
đoạn cũ, nhưng người này có tỉnh táo chút ít không là nô lệ của tâm trí. Tâm
trí đã không bỏ người đó, nhưng tâm trí không còn mạnh như nó thường vậy.
Trong trạng thái của vô trí,
tâm trí đã ra đi; tâm trí đã trở nên mệt mỏi. Tâm trí đã đi tới nhận ra rằng
"Người này đã đi ra ngoài - ngoài quyền lực của ta. Bây giờ người này
không thể bị khai thác thêm nữa. Người này đã trở nên hoàn toàn không bị đồng
nhất với ta. Người này sẽ dùng ta nhưng ta không thể dùng được người này."
Kiểu người thứ hai, người ở giữa,
đôi khi rơi lại trong hình mẫu cũ, bị tâm trí sử dụng, đôi khi thoát ra khỏi
hình mẫu cũ. Nó là trò chơi trốn tìm. Tâm trí vẫn không tuyệt đối chắc chắn rằng
nó đã thất bại; vẫn có hi vọng, vì thỉnh thoảng người này bắt đầu nghe theo tâm
trí, trở nên lại bị đồng nhất. Khoảng cách không lớn; tâm trí ở rất gần. Bất kì
khoảnh khắc nào - bất kì khoảnh khắc nào của vô thức - và tâm trí tiếp quản, bắt
đầu làm chủ lên người đó lần nữa.
Đây là kiểu người thứ hai: người
có tính thiền, người đã biết vài thoáng nhìn về cái vĩnh hằng. Cũng như bạn có
thể thấy Himalayas từ hàng nghìn dặm xa xăm... các đỉnh tuyết phủ trong sáng sớm
mặt trời trên bầu trời mở, bầu trời không mây, có thể được thấy từ xa nghìn dặm.
Đó là một điều; và ở trên đỉnh đó, ở lại ở đó, là chuyện hoàn toàn khác.
Kiểu người thứ nhất cư ngụ
trong vô trí. Kiểu người thứ hai chỉ có những thoáng nhìn - tất nhiên cực kì có
giá trị, vì những thoáng nhìn đó sẽ mở đường để cho người đó có thể đạt tới đỉnh.
Một khi bạn đã thấy đỉnh rồi, cho dù từ xa nghìn dặm, lời mời đã được nhận. Bây
giờ bạn không thể còn lại trong thế giới mà nghỉ ngơi, theo cách cũ. Cái gì đó
bắt đầu thách thức bạn, cái gì đó bắt đầu vẫy gọi bạn tới. Cuộc phiêu lưu đã
chiếm quyền sở hữu bạn: bạn phải du hành tới đỉnh đó. Có thể mất nhiều năm, có
thể nhiều kiếp, nhưng cuộc hành trình đã bắt đầu. Hạt mầm đầu tiên đã rơi vào
trong trái tim.
Thầy cư xử với người có tính
thiền theo cách khác, vì với người kiểu thứ nhất, giao cảm là có thể, với người
kiểu thứ hai, trao đổi là có thể.
Và thế rồi có kiểu thứ ba: người
sống mà bị đồng nhất với tâm trí, với bản ngã, người mà ngay cả trao đổi cũng
là không thể được, người mà không có cách nào để quan hệ.
Từ này "đồng nhất" là
hay. Nó có nghĩa là làm cho cái gì đó thành một thực thể, làm thực thể hoá cái
"id"; đó là nghĩa của đồng nhất. Khi bạn trở thành tâm trí bạn đã trở
thành một vật; bạn không còn tách rời. Bạn đã rơi vào trong giấc ngủ. Đây là điều
được gọi là giấc ngủ siêu hình. Bạn đã đánh mất dấu vết của cái ta riêng của bạn.
Bạn đã quên mất thực tại của bạn và bạn đã trở thành một với cái gì đó mà bạn
không là vậy. Trở thành một với cái gì đó mà bạn không là vậy chính là sự đồng
nhất; và là cái mà bạn đang vậy là không đồng nhất.
Người thứ nhất sống trong không
đồng nhất. Người đó biết người đó không là thân thể, người đó không là tâm trí.
Người đó đơn giản biết người đó chỉ là nhận biết và không là gì khác. Thân thể
liên tục thay đổi, tâm trí liên tục thay đổi, nhưng có một điều trong bạn mà
không thay đổi, tuyệt đối không thay đổi; đó là nhận biết của bạn. Nó đích xác
là cùng một thứ khi bạn còn là đứa trẻ và nó sẽ vẫn còn đích xác là một thứ khi
bạn là người già. Nó là cùng một thứ khi bạn được sinh ra và nó sẽ là cùng một
thứ khi bạn chết đi. Nó là cùng một thứ trước khi bạn sinh ra, nó sẽ là cùng một
thứ sau cái chết của bạn. Nó là thứ duy nhất trong sự tồn tại mà là vĩnh hằng,
không thay đổi, thứ duy nhất vẫn còn kéo dài.
Và duy nhất nhận biết vĩnh hằng
này mới có thể là nhà thực, không cái gì khác, vì mọi thứ khác đều là một luồng.
Và chúng ta liên tục níu bám lấy cái thay đổi; thế rồi chúng ta tạo ra khổ, vì
nó thay đổi và chúng ta muốn nó không thay đổi. Chúng ta đang đòi hỏi điều
không thể được, và bởi vì điều không thể được là không thể xảy ra được, chúng
ta rơi vào trong khổ lặp đi lặp lại mãi.
Thanh niên muốn vẫn còn trẻ
mãi; điều đó là không thể được. Anh ta sẽ phải trở nên già, thân thể sẽ phải trở
nên già. Và khi thân thể già, anh ta sẽ khổ. Nhưng nhận biết vẫn là một. Thân
thể hệt như ngôi nhà; nhận biết là người chủ. Sâu bên dưới bên trong phức hợp
thân thể và tâm trí của bạn có một hiện tượng khác toàn bộ thường xuyên xảy ra.
Nó không là thân thể không là tâm trí; nó là cái gì đó mà có thể quan sát thân
thể và tâm trí cả hai. Nó là việc quan sát thuần khiết. Nó là linh hồn chứng kiến
- sakshin. Kiểu người thứ nhất biết rằng người đó không bị đồng nhất với mọi
cái đang thay đổi. Người đó được định tâm trong thực tại của người đó. Kiểu người
thứ ba bị ám ảnh bởi cái gì đó mà người đó không phải vậy. Thực ra, đa số mọi
người đều thuộc vào kiểu thứ ba. Kiểu thứ ba là ốm yếu siêu hình. Nếu bạn hỏi
người đã thức tỉnh, thế thì kiểu thứ ba là điên, mất trí. Nghĩ bản thân bạn là
cái gì đó mà bạn không phải là vậy chính là mất trí.
Một người đi tới nhà tâm thần
và nói, "Bác sĩ ơi, bác sĩ phải giúp tôi. Tôi không thể thôi nghĩ rằng tôi
là con chó. Tôi thậm chí còn nhai xương, sủa, và nằm trên chiếu mọi tối."
Nhà tâm thần nói, "Vậy nằm
lên tràng kỉ kia..."
"Tôi không được phép
lên!" người đó kêu lên.
Nhưng đây là tình huống của
nhân loại bình thường. Ai đó đã trở thành người Hindu, ai đó đã trở thành người
Mô ha mét giáo, ai đó đã trở thành người Ki tô giáo. Ai đó là người Ấn Độ, ai
đó là người Trung Quốc, ai đó là người Italy. Đây toàn là những đồng nhất. Ai
đó nghĩ bản thân mình là da trắng, ai đó nghĩ bản thân mình là da đen. Ai đó
nghĩ bản thân mình là đàn ông và ai đó bị đồng nhất với việc là đàn bà. Đây
toàn là những trạng thái của giấc ngủ vô ý thức sâu.
Nếu bạn không là thân thể, làm
sao bạn có thể là đàn ông hay đàn bà? Nếu bạn không là thân thể, làm sao bạn có
thể là da trắng hay da đen? Nếu bạn thậm chí không là tâm trí, làm sao bạn có
thể là người Ki tô giáo hay người Hindu? Nếu bạn chỉ là nhận biết, thế thì bạn
chỉ là nhận biết và không là cái gì khác.
Bây giờ câu chuyện Thiền nhỏ
này:
Một hôm vua nước Yên tới thăm
thầy Triệu Châu, ông ấy thậm chí không đứng dậy khi ông ấy thấy vua tới.
Điều đó là kì lạ! Thứ nhất: bây
giờ điều đã trở thành gần như không thể được là một tổng thống hay thủ tướng
hay nhà vua đi tới một thầy, vì họ nghĩ họ là người có quyền lực. Tại sao họ phải
đi tới những người nghèo này? Những người này có thể cho họ cái gì? Các giá trị
đã thay đổi.
Trong vòng hai nghìn năm, giá
trị của con người đã trải qua thay đổi mênh mông. Vào thời cổ, người cao nhất
không phải là người có quyền lực mà là người đã từ bỏ quyền lực. Và điều dường
như có ý nghĩa là người đã từ bỏ quyền lực đáng phải được coi là cao hơn; chính
ham muốn rất bình thường là có quyền lực. Người đã có khả năng từ bỏ quyền lực
đã đạt tới sự toàn vẹn bên trong nào đó. Người đó đã từ bỏ chính tham vọng bình
thường; người đó đã trở thành phi thường.
Vào những ngày đó, các vua thường
đi tìm lời khuyên, đi tìm ánh sáng, ngồi dưới chân ai đó, người đã đạt tới.
Nhà vua này phải đã nghe nói về
Triệu Châu. Ông ta tới gặp ông này. Điều này chỉ ra ưu tiên khác toàn bộ. Bây
giờ điều đó rất khó; nó khó vì con người đã trở nên vật chất hơn. Tâm trí con
người bận tâm quá nhiều với điều bạn có thay vì với điều bạn hiện hữu. Vào thời
cổ đại giá trị không ở trong đồ sở hữu của bạn mà trong bản thể bạn. Giá trị
không trong đồ vật của bạn, thậm chí không trong tri thức - vì điều đó nữa cũng
là vật sở hữu - mà trong bản thể bạn, trong bản thể vô cùng của bạn, trong sự
thuần khiết của cốt lõi bên trong của bạn. Bạn có thể chẳng có gì...
Alexander đã đi tới gặp
Diogenes - một người trần trụi chẳng có gì. Nhưng điều hay là nhớ rằng ngay cả
Alexander Đại đế cũng có can đảm để đi tới Diogenes, một thầy tu khổ hạnh trần
trụi. Ông ấy đã đi để làm gì? Các tướng lĩnh của Alexander, thủ tướng của ông ấy,
các bộ trưởng, tất cả đều chống lại điều đó. Họ nói, "Bệ hạ đi tới đó để
làm gì? Người đó chẳng có gì cả!"
Alexander nói, "Ta biết điều
đó, rằng người đó chẳng có gì cả; đó là lí do tại sao ta đi tới gặp ông ấy, vì
ta đã nghe nói ông ấy có việc bắt rễ vô cùng, việc định tâm lớn lao - và ta muốn
gặp người được định tâm. Ta chỉ là mảnh mẩu, ta không có trung tâm. Ta không biết
có trung tâm là gì và ta muốn gặp người có trung tâm. Ông ấy không sở hữu cái
gì ở bên ngoài, nhưng ông ấy sở hữu bản thân ông ấy - và đó là sở hữu thật."
Một hôm vua nước Yên tới thăm
thầy Triệu Châu, ông ấy thậm chí không đứng dậy khi ông ấy thấy vua tới.
Và Triệu Châu đã không đứng dậy.
Điều đó chắc đã là bình thường, được mong đợi. Khi nhà vui tới gặp bạn, bạn phải
đứng dậy và đón chào ông ấy; nó chỉ là nghi lễ.
Tôi đã nghe nói rằng Trang Tử,
một Đạo sĩ, thường vào phụng sự nhà vua Trung Quốc. Thế rồi ông ấy bỏ phụng sự.
Sau vài năm nhà vua đi tới biết rằng Trang Tử đã trở nên chứng ngộ, cho nên ông
ta tới thăm Trang Tử.
Trang Tử là con người của đại
phong tục, lễ nghi, vì ông ấy đã là một trong những người quan trọng nhất trong
triều đình nhà vua. Cho nên nhà vua mong đợi cùng tập quán của triều đình. Khi
ông ấy tới Trang Tử, Trang Tử đang thổi sáo, cả hai chân duỗi dài dưới gốc cây,
tựa vào cây. Ông ấy tiếp tục thổi sáo với chân duỗi dài.
Nhà vua đứng đó, không thể tin
được vào mắt mình. Ông ấy nói, "Khanh đã phát điên hay cái gì? Khanh đã
quên mọi tập quán triều đình rồi sao?"
Trang Tử cười và ông ấy nói,
"Ta đã biểu lộ những tập quán đó vì ta vẫn còn khao khát sự kính trọng.
Bây giờ ta không không khao khát cái gì, cho nên tại sao ta phải quan tâm? Đại
vương có thể là vua, đại vương có thể là kẻ ăn xin - điều đó là như nhau với
ta. Vì bây giờ ta không có ham muốn gì thêm nữa, chả thành vấn đề nhà vua tới
ta hay người ăn xin tới."
Nhà vua bị ấn tượng mênh mông;
ông ấy hiểu ra vấn đề. Tất cả những tập quán triều đình kia chẳng là gì ngoài
cách chống đỡ cho nhà vua.
Bạn đỡ cho ai đó, và thế rồi
trong đáp ứng lại người đó đỡ cho bản ngã của bạn. Nó là một loại thu xếp tự
nhiên. Bạn nói những điều tốt về người khác và họ nói những điều tốt về bạn. Cả
hai đều là hình thức vì cả hai đều nghe điều tốt về bản thân họ.
Trang Tử nói, "Bây giờ điều
đó là tuỳ đại vương, bất kì điều gì đại vương nghĩ. Đại vương có thể nghĩ ta đã
phát điên, đại vương có thể nghĩ ta đã sa ngã từ ân huệ. Ai quan tâm?"
Đích xác cùng điều đó đã xảy ra
với Triệu Châu: ông ấy thậm chí đã không đứng dậy khi ông ấy thấy nhà vua tới.
Nhưng nhà vua này phải đã có một phẩm chất khác toàn bộ với nhà vua tới thăm
Trang Tử. Ngay cả Alexander cũng bị khó chịu bởi hành vi của Diogenes, vì
Diogenes nằm dài trần trụi trên bờ sông trong cát. Lúc đó là sáng sớm - phải đã
là sáng như thế này, rất mát mẻ - và ông ấy đang tắm nắng. Ông ấy không đứng dậy;
ông ấy vẫn còn nằm dài, tắm nắng.
Alexander hơi chút bối rối -
làm sao bắt đầu nói chuyện với người này? Không tìm được cái gì khác, ông ta
nói, "Ta đã tới để gặp ông - ta là Alexander Đại đế. Ta có thể giúp gì cho
ông không?"
Diogenes nói, "Trông đấy,
nếu ông thực sự là vĩ đại, ông không cần liên tục tuyên bố điều đó. Điều đó đơn
giản phơi bày một tâm trí rất ngu xuẩn. Điều đó biểu lộ chỉ một tâm trí rất nhỏ,
bản ngã. Tuyên bố bản thân mình là vĩ đại đơn giản có nghĩa là ông đang khổ từ
phức cảm kém cỏi!
"Và điều thứ hai: Ta không
cần cái gì, nhưng nếu ông thực sự muốn giúp ta, ông có thể làm một điều - đứng
dịch sang bên đi, vì ông đang chắn mặt trời."
Đó là mọi điều Diogenes yêu cầu
với Alexander Đại đế: "Đứng dịch sang bên đi, đừng tới chắn lối mặt trời tới
ta."
Nhưng Alexander không thể hiểu
được Diogenes. Tất nhiên ông ta bị ấn tượng, nhưng theo cách thức khác toàn bộ.
Ông ta bị ấn tượng bởi sự hiện diện mạnh mẽ của Diogenes - cứ dường như là toàn
thể bờ sông đầy sự hiện diện của ông ấy, dường như ông ấy đang tạo ra một Phật
trường. Mặc dầu ông ta có võ trang, mặc dầu ông ta không quan tâm chút nào tới
huyền môn, ông ta đã bị ấn tượng.
Nhưng nhà vua này của nước Yên
phải đã từng thuộc kiểu người thứ nhất cao hơn nhiều so với nhà vua đã tới thăm
Trang Tử và cao hơn nhiều so với Alexander. Ông ấy đã hiểu điều đó.
Nhà vua hỏi, "Cái nào cao
hơn, vua thế gian, hay 'vua của pháp'?"
Tại sao ông ấy đã hỏi câu hỏi
này? Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng ông ấy đã hỏi nó chỉ để xem liệu Triệu Châu
có biểu lộ cái gọi là sự khiêm nhường nào hay không.
Người tôn giáo bao giờ cũng
liên tục biểu lộ sự khiêm tốn: "Tôi là cái không, tôi là không ai cả."
Và nếu bạn nhìn vào mắt họ, mắt họ đang nói chính điều ngược lại. Nếu bạn quan
sát hành vi của họ, nó bao giờ cũng là phóng chiếu của ta linh thiêng hơn
ngươi. Họ liên tục nói, "Chúng tôi là cái không," và họ liên tục
tuyên bố theo cách tinh vi, theo cách ngoại giao, "Chúng tôi là thánh
nhân."
Nhà vua hỏi, "Cái nào cao
hơn, vua thế gian, hay 'vua của pháp'?"
Triệu Châu đáp, "Trong các
vua của người, ta cao hơn, trong các vua của pháp, ta cũng cao hơn."
Con người thực của Thiền không
khiêm tốn theo nghĩa bình thường của từ này. Người đó đơn giản nói bất kì cái
gì là hoàn cảnh. Đây là hoàn cảnh! Triệu Châu đơn giản phát biểu chân lí. Ông ấy
không nói gì về bản thân mình, nhớ lấy. Ông ấy đơn giản phát biểu một sự kiện:
"Trạng thái này - trạng thái này của vô trí mà ta đang vậy - là cao hơn,
cao hơn trong số các vua của con người và cao hơn trong số các vua của pháp nữa
- vì nó là trạng thái cao nhất."
Một lần Ramakrishna được một hoạ
sĩ lớn tặng một bức tranh - bức tranh về bản thân Ramakrishna, bức chân dung.
Ramakrishna nhận bức tranh, cúi mình trước bức tranh, chạm chân - chân của ông ấy,
nó là chân dung riêng của ông ấy! Hoạ sĩ đâm phân vân: "Người kia thực sự
điên rồi sao?" Các đệ tử cũng phân vân.
Một đệ tử hỏi, "Paramahansadeva,
thầy làm gì vậy, chạm chân thầy à?"
Ramakrishna nói, "Phải!
Các ông nên nhắc nhở ta trước. Ta đáng phải không làm điều như vậy. Mọi người sẽ
nghĩ gì? Họ sẽ nghĩ ta điên! Nhưng sự thực là, ta hoàn toàn quên mất rằng đây
là bức tranh về ta - ta chỉ có thể thấy trạng thái tâm thức tối thượng. Đây là
bức tranh về samadhi, không phải về Ramakrishna. Ramakrishna là không liên
quan! Nó có thể đã là bức tranh về Phật, nó có thể đã là bức tranh về Krishna,
nó có thể đã là bức tranh về Jesus. Chỉ ngẫu nhiên là nó là về ta. Điều đó
không thành vấn đề.
"Nhưng bức tranh đã có khả
năng bắt giữ cái gì đó rất tinh tế; ông ấy đã có khả năng mô tả cái gì đó mà
không thể nào mô tả được. Và ta không thể cưỡng lại được bản thân mình - ta phải
cúi mình, ta phải chạm chân."
Nhớ lấy, khi Triệu Châu nói:
"Trong các vua của người,
ta cao hơn, trong các vua của pháp, ta cũng cao hơn..."
ông ấy không nói về bản thân
mình, không chút nào. Ông ấy đang nói về trạng thái tối thượng. Ông ấy không
còn nữa, cho nên ai có đó để mà khiêm tốn? Thấy ra vấn đề đi: không có ai để mà
tự hào, không có ai để mà khiêm tốn. Đó toàn là trò chơi của bản ngã - là khiêm
tốn hay là tự hào.
Con người thực không tự hào
không khiêm tốn; người đó đơn giản không hiện hữu. Thế thì bất kì cái gì người
đó nói đều không có tham chiếu tới nhân cách của người đó. Người đó chỉ là tấm
gương; người đó phản xạ điều tối thượng. Triệu Châu đang nói về điều tối thượng.
Ông ấy đã trở thành một với điều tối thượng. Và nhà vua đã hiểu điều đó.
Nghe câu trả lời đáng ngạc nhiên
này...
Câu trả lời này thực sự đáng ngạc
nhiên. Khi bạn đi tới thánh nhân, họ không nói giống điều đó.
Có lần tôi được mời tới cuộc hội
nghị tôn giáo. Ba trăm thánh nhân được mời từ khắp nước. Tôi đâm ra phân vân tại
sao họ đã mời tôi, vì tôi không là thánh nhân. Dường như bởi sai lầm nào đó...
Họ đã làm một cái nền lớn cho tất
cả ba trăm thánh nhân ngồi cùng nhau, nhưng những thánh nhân này lại không sẵn
sàng ngồi trên cùng nền, ở cùng chiều cao, với những người khác. Không ai sẵn
sàng! Tất cả họ đều muốn ở chỗ cao hơn chút ít so với người khác. Bây giờ, điều
đó là không thể được! Làm sao bạn có thể xoay xở cho ba trăm người, mọi người đều
đòi hỏi chỗ cao hơn chút ít so với người khác? Cho nên sân khấu cho ba trăm người,
và cả nghìn người đã tụ tập để nghe, nhưng từng thánh nhân nói cho mọi người -
ngồi một mình trên cái nền lớn đó.
Thậm chí không thể nào đem họ lại
cùng nhau. Và nếu bạn nói với họ, họ tất cả sẽ nói, "Chúng tôi chỉ là cát
bụi và không gì khác. Chúng tôi là người khiêm tốn, đầy tớ của Thượng đế, đầy tớ
của nhân loại."
Thậm chí một lần một năm một
người trong họ sẽ rửa chân cho người nghèo - toàn nghi lễ! Nhưng họ không thể
ngồi trên cùng một nền được. Một trong ba trăm người thánh nhân đó đã mang ngai
vàng riêng của ông ta tới và ông ta muốn ngồi trên ngai vàng của mình. Bây giờ
những người khác rất tức giận. Họ nói, "Điều này không thể được phép! Nếu
ông ấy ngồi trên ngai vàng, thế thì chúng tôi cũng cần ngai vàng cùng chiều
cao."
Bạn có thể thấy loại người này
là gì không? Đây là thánh nhân hay khỉ? Ngay cả khỉ cũng không ngu thế! Tôi đã
thấy chúng chỉ ngồi trên cây, trên cùng cành, tận hưởng bản thân chúng. Không
con nào lo nghĩ về ai cao hơn, ai thấp hơn.
Nhưng nếu bạn nói với các thánh
nhân này... và tất cả họ đều nói cho khán giả, và với sự khiêm tốn lớn. Chủ
nghĩa vị kỉ ngoan đạo! Chủ nghĩa vị kỉ tôn giáo! Và chủ nghĩa vị kỉ tôn giáo,
ngoan đạo là nguy hiểm hơn nhiều so với bất kì cái gì khác. Mọi hành vi của họ,
mọi bài nói của họ, chỉ là mẽ ngoài đẹp đẽ, hiện tượng được trau dồi. Vì mọi
người kính trọng tính khiêm tốn, nên họ giả vờ là khiêm tốn - để được kính trọng.
Bạn thấy chiến lược và cách thức tinh ranh của bản ngã không? Và đây là những
người đã thu toàn thể tôn giáo thành nghi lễ.
Nghe câu trả lời đáng ngạc
nhiên này...
Nó thực sự là đáng ngạc nhiên -
ngạc nhiên bởi vì bình thường người tôn giáo không nói giống như điều đó. Nhà
vua phải đã mong đợi rằng ông ấy sẽ nói, "Ta là không ai cả. Ta chỉ là bụi
dưới chân ông. Ta là đầy tớ của nhân loại, chỉ là đầy tớ của Thượng đế. Ta ở
đây để phục vụ người khác."
Nhưng ông ấy đơn giản nói,
"Không. Ta cao hơn các nhà vua con người và ta cao hơn các vua của pháp nữa."
Ông ấy đơn giản phát biểu sự kiện. Thực ra, ông ấy đang biểu lộ kính trọng lớn
tới nhà vua. Bằng việc nói ra chân lí, ông ấy đan nói, "Ta hiểu rằng ông
có thể hiểu được."
Nghe câu trả lời đáng ngạc
nhiên này, nhà vua rất hài lòng.
Đọc câu này lần đầu tiên, bạn sẽ
hơi chút ngạc nhiên tại sao nhà vua lại hài lòng. Ông ta đáng ra phải thực sự
không hài lòng vì người này đang cố chứng minh bản thân mình cao hơn mọi người
- không chỉ cao hơn ông ta mà cao hơn các thánh nhân khác nữa. Người này đang
nói, "Ta vĩ đại hơn các vua của pháp."
Nhưng ông ta lại hài lòng. Tại
sao? - bởi lí do đơn giản là người này hiểu rằng nhà vua có thể hiểu được - và
nhiều kính trọng hơn điều đó thì không thể được biểu lộ ra. Ông ấy phải nói
chân lí như nó vậy, trần trụi, hoàn toàn trần trụi, tin cậy rằng ở đây là người
sẽ có khả năng hiểu. Không cần thoả hiệp; không cần đi xuống; không cần nói trong
ngôn ngữ mà ông ta có thể hiểu được. Bạn có thể nói chân lí như nó vậy và dầu vậy
bạn có thể hi vọng rằng ông ta sẽ hiểu.
Triệu Châu phải đã thấy rằng
người này đã đạt tới cái gì đó về vô trí.
Và bất kì khi nào bạn tới trước
thầy, chỉ cái nhìn là đủ và thầy biết bạn một cách xuyên thấu, tới cốt lõi bên
trong nhất. Thầy lập tức trở nên quen thuộc với bạn; không cần giới thiệu nào
khác. Thầy có thể thấy liệu bạn đang ngủ hay thức. Thầy có thể thấy liệu bạn
đang giả vờ hay thực. Thầy có thể thấy liệu bạn rởm hay đích thực. Thầy có thể
thấy nơi bạn đang hiện hữu.
Mọi tối mọi người đều tới gặp
tôi; họ tới chạm chân tôi. Việc chạm chân tôi chẳng liên quan gì tới tôi; đó chỉ
là cái cớ cho họ cúi mình, buông xuôi. Bất kì cớ nào khác cũng có tác dụng. Nếu
bạn có thể xoay xở bạn có thể cúi lạy cây, và ngay lập tức bạn sẽ thấy việc
tràn dâng lớn trong bản thân bạn, việc nâng lên lớn.
Cũng có vài người ngu. Họ sẽ chạm
chân tôi, nhưng họ chỉ tuân theo nghi lễ. Có vài loại người ngu khác sẽ tới để
chạm chân tôi nhưng thậm chí sẽ không có khả năng làm điều đó một cách hình thức.
Họ sẽ chỉ ngồi đó như tảng đá. Tôi chạm vào đầu họ không làm cho họ bực mình, bằng
không thì chẳng đáng gì vì điều đó là vô nghĩa. Nếu họ không buông xuôi, cái chạm
của tôi không thể đạt tới trái tim họ được, năng lượng của tôi không thể khuấy
động trái tim họ được. Nếu họ ngồi đó như tảng đá, họ chỉ chạm chân tôi theo
cách rởm. Việc chạm vào đầu họ là vô tích sự. Dầu vậy tôi vẫn chạm, chỉ không
làm đau họ một cách không cần thiết. Và họ thậm chí sẽ không hiểu điều đó. Bạn
có thể đánh chỉ khi ai đó hiểu.
Bây giờ Triệu Châu đã đánh nhà
vua mạnh nhất có thể được bằng việc nói, "Ông là gì? Ta cao hơn mọi vua, của
thế giới này và thế giới kia." Ông ấy đã đánh ông ta rõ đau - chắc phải đã
thấy năng lực hiểu mênh mông của người này. Và đó là lí do tại sao nhà vua rất
hài lòng: ông ta đã không hi vọng rằng ông ta sẽ được kính trọng nhiều thế.
Bạn có thấy ra vấn đề không? Nó
không phải là giai thoại bình thường đâu. Khi bạn đọc nó, nó có vẻ thường; khi
bạn đi sâu hơn vào trong nó có tính thiền, bạn sẽ thấy sắc thái tinh tế, lối rẽ
tinh tế. Chỉ một cụm từ này - nhà vua rất hài lòng - có tầm quan trọng mênh
mông. Cái gì có đó để mà được hài lòng? Người này đã đánh ông ta như bất kì cái
gì! Nhưng có cái gì đó được hài lòng về, vì ông ta đã nghĩ ông ta xứng đáng với
việc đánh; ông ta nghĩ ông ta đủ xứng đáng để nói chân lí như nó vậy. Ông ta
thuộc về phân loại thứ nhất.
Ngày hôm sau một tướng tới thăm
Triệu Châu, ông ấy không chỉ đứng dậy từ chỗ ngồi khi ông ấy thấy vị tướng tới,
mà còn bày tỏ cho vị tướng lòng hiếu khách theo mọi cách khác với điều ông ấy
đã bày tỏ cho nhà vua.
Sau khi vị tướng đã ra về, sư hầu
hạ Triệu Châu hỏi ông ấy, "Sao thầy đứng dậy từ chỗ ngồi khi một người ở cấp
thấp hơn tới gặp thầy, vậy mà thầy đã không làm như vậy với người ở cấp cao nhất?"
Bây giờ sư hầu hạ có thể thấy
chỉ cái vỏ bên ngoài. Tướng ở cấp thấp hơn, vua ở cấp cao nhất - họ chỉ có thể
được nhìn từ phía ngoài. Và họ phải đã từng phân vân: "Tại sao Triệu Châu
cư xử theo cách cứng rắn thế với vua và sao ông ấy đã cư xử theo cách mềm mỏng
thế với tướng?"
Triệu Châu đáp, "Ông không
hiểu. Khi người hạng cao nhất tới gặp ta, ta không đứng dậy từ chỗ ngồi..."
Không có nhu cầu, vì người có
phẩm chất cao nhất không có bản ngã; đó là lí do tại sao họ có phẩm chất cao nhất.
Nếu họ không có bản ngã, không có nhu cầu đứng lên hay biểu lộ kính trọng với họ.
Điều đó sẽ là vô tích sự, vô nghĩa. Điều đó sẽ đơn giản chỉ ra rằng bạn không
hiểu.
" Khi người hạng cao nhất
tới gặp ta, ta không đứng dậy từ chỗ ngồi; khi họ ở hạng trung, ta đứng dậy;
nhưng khi họ ở hạng thấp nhất, ta đi ra ngoài cổng để đón họ."
Cách thức của thầy là kì lạ! Và
ở cùng thầy là ở cùng với điều huyền bí. Thầy là điều huyền bí: thầy sống trên
thế gian và vậy mà thầy không là một phần của thế gian. Thầy ở trong thân thể
và thầy không là thân thể. Thầy dùng tâm trí và thầy không phải là tâm trí. Thầy
ở trong thời gian nhưng thầy thuộc vào cõi bên kia, cõi vĩnh hằng. Thầy sống động
như bạn, nhưng theo cách khác toàn bộ vì thầy biết không có sinh, không có chết.
Thầy đã đi ra ngoài sống và chết; thầy biết cuộc sống vĩnh hằng.
Từ bên ngoài thầy giống hệt bạn
- đói thầy ăn, khát thầy uống, mệt thầy ngủ - hệt như bạn. Nhưng trong cốt lõi
bên trong nhất thầy là khác toàn bộ vì thầy ở trong một thế giới khác toàn bộ,
trong một không gian khác toàn bộ.
Và để hiểu thế giới bên trong của
mình, bạn sẽ phải trưởng thành trong tính bên trong riêng của bạn; đó là cách
duy nhất. Bạn có thể hiểu chỉ chừng nấy. Nếu bạn đi sâu hơn vào trong bản thân
bạn, bạn sẽ hiểu thầy theo cách sâu sắc. Bạn càng đi sâu hơn vào bên trong, bạn
sẽ càng hiểu thầy sâu hơn. Để hiểu thầy bạn sẽ phải đi sâu hơn vào trong bản
thân bạn. Khi bạn đã đạt tới cốt lõi bên trong nhất của bản thể bạn, bạn sẽ biết
thầy trong hoàn hảo tuyệt đối của thầy. Bằng không, bạn sẽ hiểu lầm.
Bây giờ, ngay cả sư hầu hạ này
cũng không thể hiểu được.
Triệu Châu đáp, "Ông không
hiểu. "
Nó là rất đơn giản!
" Khi người hạng cao nhất
tới gặp ta, ta không đứng dậy từ chỗ ngồi..."
"Theo cách đó ta biểu lộ
kính trọng của ta cho họ. Ta nói với họ, 'Ta đã thấy rằng ông đã biết cái gì đó
về vô trí, rằng bản ngã của ông không còn là hiện tượng cứng rắn, nó không còn
là bản chất nữa; rằng ông không khao khát kính trọng. Đó là lí do tại sao ta
không biểu lộ cho ông việc kính trọng hình thức. Ta biết rằng ông đã đi ra
ngoài hình dạng và ra ngoài hình thức.'"
Chúng ta sống trong hình dạng
và trong hình thức; chúng ta thay đổi mọi thứ thành nghi lễ. Yêu trở thành hôn
nhân. Christ trở thành nhà thờ. Phật bị thu lại thành tượng đá. Chân lí lớn trở
thành kinh sách thường để được tôn thờ. Chúng ta thực sự rất khéo léo trong việc
thu mọi thứ cao hơn thành thấp nhất có thể được. Chúng ta đem mọi thứ về mức của
chúng ta.
Thay vì đi tới mức của chư Phật,
của các thầy, chúng ta đem các thầy xuống, một khi họ đã rời khỏi thế gian... Tất
nhiên, khi họ còn sống bạn không thể đem họ xuống mức của bạn được; họ sống mà
không có thoả hiệp nào. Bạn phải buông xuôi theo họ. Nhưng một khi họ đã đi rồi,
thế thì rất dễ dàng: bạn có thể làm ra tượng của họ và đền chùa và bạn có thể
tôn thờ họ, và mọi thứ trở thành hình thức - tôn giáo chủ nhật - thoải mái, thuận
tiện, nhưng vô nghĩa.
Một thần địa ngục lưu ý cho các
thần khác, "Tôi không thấy các ông ở chỗ hiếp dâm tập thể nữa. Điều gì đã
xảy ra?"
"Tôi lấy vợ rồi," bạn
thân của thần đó nói.
"Hiển nhiên, cậu cả,"
thần thứ nhất nói, "người bám đuôi hợp pháp có tốt gì hơn loại bình thường
không?"
"Nó thậm chí tốt thế,"
chú rể mới nói, "nhưng anh không phải đứng thành hàng đợi nó."
Điều đó là thoải mái, nó là thuận
tiện - người bám đuôi hợp pháp! Và con người quan tâm nhiều tới thuận tiện hơn
là chân lí, quan tâm nhiều tới thoải mái hơn là chân lí, quan tâm nhiều tới an
ninh hơn là biến đổi.
Nếu đó là trạng thái của bạn nữa,
bạn sẽ bỏ lỡ tôi, vì mối quan tâm của tôi không phải là an ninh; tôi sẽ buộc bạn
ngày càng vào bất an ninh hơn. Mối quan tâm của tôi không phải là thuận tiện;
tôi sẽ buộc bạn ngày càng nhiều vào trong nổi dậy. Mối quan tâm của tôi chỉ là
một: chân lí, bởi vì chính chân lí giải thoát; mọi thứ khác trở thành tù túng.
Người có phẩm chất cao nhất
ngay lập tức trở thành người sùng kính. Người có phẩm chất trung bình ngay lập tức
trở thành đệ tử. Người có phẩm chất thấp nhất vẫn còn chỉ là học trò qua nhiều
năm, nhiều kiếp.
Nhìn vào bản thân bạn đi, nơi bạn
đang hiện hữu. Đừng chỉ là học trò ở đây. Đây không phải là trường học; thực
ra, toàn thể quá trình là quá trình hoá giải việc học ở trường. Tôi không dạy bạn
cái gì; tôi ở đây để giúp bạn được biến đổi. Tôi không cho bạn giáo điều hay
tín điều hay tôn giáo; tôi không quan tâm tới tất cả những thứ này. Tôi đơn giản
muốn cho bạn cái bạn đã có - nó chỉ phải được gợi ra.
Bạn phải trở nên được hoà điệu
với tôi, trong hài hoà sâu sắc, là một với tôi. Chỉ thế thì bạn sẽ được lợi.
Phúc lành lớn có thể là của bạn, ân huệ lớn có thể là của bạn, nhưng bạn sẽ phải
đi ra khỏi nhà tù nhỏ của bạn, ra khỏi tâm trí nhỏ bé của bạn, ra khỏi bản ngã
nhỏ bé của bạn. Và bạn sẽ có được chỉ cái bạn xứng đáng, cái bạn đáng giá. Tôi
có thể liên tục trưng ra kim cương cho bạn, nhưng nếu bạn không hiểu kim cương
là gì, bạn sẽ cứ thu thập đá mầu.
Và mọi người thực sự ngủ tới mức
họ không biết họ đang làm gì và họ hỏi về những thứ sai. Họ hỏi về kính trọng,
họ hỏi về chất nuôi dưỡng nào đó cho bản ngã của họ.
Nhiều người viết thư cho tôi -
những người mới tới - nói, "Tại sao trong đạo tràng của thầy không có chút
ít tình yêu thêm được biểu lộ cho người mới tới? Tại sao mọi người dường như có
chút ít xa cách, chút ít lãnh đạm? Tại sao mọi người dường như không quan tâm tới
người mới tới? Chúng tôi tới đây để tìm tình yêu, nhiệt tình."
Thực ra, đằng sau những từ này
- "yêu," "nhiệt tình," vân vân - mọi điều bạn khao khát là
một loại kính trọng nào đó, một loại chất nuôi dưỡng bản ngã nào đó. Đó là lí
do tại sao mọi người sẽ có vẻ lãnh đạm, mọi người sẽ có vẻ xa cách.
Chúng tôi không quan tâm tới việc
giúp cho bản ngã của bạn vì chúng tôi không muốn tạo ra địa ngục lớn hơn cho bạn.
Bạn đã trong khổ rồi - bạn đã khổ đủ rồi. Chúng tôi muốn kéo bạn ra khỏi bản
ngã của bạn. Chỉ một điều nhỏ có thể làm đau, chỉ một thứ rất nhỏ. Và chúng tôi
đã quản lí các thứ theo cách mà có nhiều thứ nhất định làm đau bản ngã bạn. Chừng
nào bạn chưa sẵn sàng bỏ chúng, bạn sẽ trốn khỏi chỗ này sớm hay muộn.
Chỉ những người sẵn sàng bỏ bản
ngã của họ mới trở thành một phần của tâm xã này. Và tâm xã này đang xảy ra sau
nhiều thế kỉ. Đã từng có các thầy với vài đệ tử... Nỗ lực của tôi là để mang cuộc
cách mạng tới mức là toàn thể tâm thức của nhân loại bị ảnh hưởng bởi nó. Chỉ
chứng ngộ cá nhân là không đủ. Chúng tôi phải bắt đầu một quá trình của chứng
ngộ mà trong đó hàng nghìn người trở nên chứng ngộ gần như đồng thời, để cho
toàn thể tâm thức của nhân loại có thể được nâng lên tới mức cao hơn vì đó là
niềm hi vọng duy nhất về việc cứu nó.
Bằng không, hai mươi năm này sẽ
là định mệnh. Hoặc chúng ta sẽ thành công trong việc biến đổi tâm thức của toàn
thể nhân loại và đem nó vào mức cao hơn - ít nhất tới mức thứ hai, tâm trí thiền,
cho hàng triệu người, và cho hàng nghìn người tới cấp thứ nhất, vô trí... Nếu
chúng ta có thể làm được nó, đó là cách có thể duy nhất để cứu nhân loại. Bằng
không, trong tay các chính khách ngu xuẩn nhiều quyền lực thế đã đi tới rằng bất
kì khoảnh khắc nào chiến tranh thế giới thứ ba đều có thể bắt đầu, và điều đó sẽ
tiêu diệt toàn thể nhân loại. Và mọi công trình của các thời đại, của mọi chư
Phật, sẽ đơn giản bị phá huỷ.
Krishna, Jesus, Lão Tử, Phật,
Pythagoras, Socrates: những người này đã làm việc vất vả để tạo ra khu vườn
này. Và bây giờ chúng ta đang sẵn sàng đốt cháy nó toàn bộ.
Trước khi quá trễ... thức dậy
đi! Ít nhất chuyển sang trạng thái tâm trí thứ hai - tâm trí có tính thiền - thế
thì trạng thái thứ nhất sẽ trở thành dễ dàng. Ở cùng tôi đừng thuộc vào trạng
thái thứ ba, vì điều đó không thực là ở cùng tôi. Chỉ trạng thái thứ hai mới là
chút ít ở cùng tôi và đang trên đường ở toàn bộ cùng tôi. Nhưng nhớ lấy, mục
đích là ở trạng thái thứ nhất: vô trí là mục đích.
Từ tâm trí tới vô trí là cuộc
cách mạng về tính chất sannyas.
..............................
0 Đánh giá