Read more
Sekkyo nói với một trong những sư của mình:
"Ông có thể bắt giữ cái trống rỗng
không?"
"Tôi sẽ thử," sư này nói,
Và sư khum tay trong không trung.
"Điều đó không thật tốt đâu,"
Sekkyo nói,
"ông không thu được cái gì ở đó."
"Vậy, thưa thầy," sư này nói,
"Xin chỉ cho tôi cách tốt hơn."
Vừa lúc đó, Sekkyo tóm lấy mũi của sư này
Và véo mạnh.
"Ái!" Sư này la lên. "Thầy
làm đau tôi!"
"Đó là cách nắm giữ cái trống rỗng đấy,
Sekkyo nói.
Con người quá đầy bản thân mình và điều đó
là việc hoàn tác của người đó.
Con người nên giống cây trúc hổng,
để cho sự tồn tại có thể đi qua người đó. Con người nên giống như miếng bọt biển
rỗng - không cứng - để cho cửa và cửa sổ của bản thể người đó được mở ra, và sự
tồn tại có thể đi qua từ đầu này sang đầu khác mà không có cản trở nào; thực
ra, không tìm thấy người bên trong. Gió thổi - chúng đến từ cửa sổ này và chúng
đi từ cửa sổ khác của bản thể người đó. Cái trống rỗng này là phúc lạc cao nhất
có thể. Nhưng bạn giống như tảng đá cứng, không xốp, hay giống như thanh thép cứng.
Không cái gì đi qua bạn. Bạn kháng cự lại mọi thứ. Bạn không cho phép. Bạn cứ
tranh đấu với mọi phía và theo mọi hướng cứ dường như bạn ở trong cuộc chiến lớn
với sự tồn tại.
Không có cuộc chiến diễn ra, bạn
đơn giản tự lừa mình.
Không ai có đó để phá huỷ bạn.
Cái toàn thể hỗ trợ bạn; cái toàn thể là chính đất mà bạn đang đứng, chính trời
mà bạn đang thở, bạn sống trong đó. Thực ra, bạn không hiện hữu - chỉ cái toàn
thể hiện hữu.
Khi người ta hiểu điều này, dần
dần người ta vứt bỏ cái cứng rắn bên trong, không có nhu cầu về nó. Không có
thù địch, cái toàn thể là thân thiện hướng tới bạn. Cái toàn thể yêu thương bạn,
yêu bạn. Bằng không, tại sao bạn ở đây? Cái toàn thể sinh ra bạn, như cây được
sinh ra bởi đất. Cái toàn thể muốn tham gia vào mọi phúc lành của bạn, trong mọi
lễ hội có thể có. Khi bạn nở hoa, cái toàn thể sẽ nở hoa qua bạn; khi bạn hát,
cái toàn thể sẽ hát qua bạn; khi bạn nhảy múa, cái toàn thể sẽ nhảy múa cùng bạn.
Bạn không tách rời.
Cảm giác tách rời tạo ra sợ, và
sợ làm cho bạn thành không xốp. Cảm giác bất an, cứ dường như cái toàn thể định
phá huỷ bạn, cảm giác rằng bạn là người lạ ở đây, người ngoài, và rằng bạn phải
tranh đấu theo cách của bạn từng li một hướng tới số mệnh của bạn, làm cho bạn
thành thanh thép cứng. Tất nhiên, thế thì nhiều thứ đơn giản biến mất khỏi cuộc
sống của bạn. Bạn sống trong phiền não, bạn sống trong lo âu, bạn sống trong
đau đớn mãnh liệt, nhưng bạn sống điều này theo cách riêng của bạn. Xốp ra đi.
Nổi bồng bềnh. Tranh đấu không được cần chút nào. Thay vì thế, liên kết được cần.
Đây là hai thái độ mở với con
người: thái độ của chiến binh và thái độ của người yêu. Đó là chọn lựa của bạn
- bạn có thể chọn.
Nhưng nhớ cho... những hậu quả
nào đó sẽ theo sau.
Nếu bạn chọn con đường của chiến
binh và bạn trở thành chiến sĩ với mọi thứ bao quanh bạn, bạn bao giờ cũng sẽ
trong khổ. Điều này tạo ra địa ngục bao quanh bạn; trong chính thái độ tranh đấu
địa ngục được tạo ra. Hay bạn trở thành người yêu, người tham dự, thế thì cái
toàn thể là nhà bạn; bạn không là người lạ. Bạn ở nhà. Không có tranh đấu. Bạn
đơn giản chảy cùng dòng sông. Thế thì, cực lạc sẽ là của bạn; thế thì từng khoảnh
khắc sẽ trở thành cực lạc, việc nở hoa.
Không có địa ngục ngoại trừ bạn
và không có cõi trời ngoại trừ bạn. Chính thái độ của bạn, cách bạn nhìn vào
cái toàn thể. Tôn giáo là cách thức của người yêu; khoa học là cách thức của
chiến sĩ.
Khoa học là cách thức của ý
chí, dường như bạn ở đây để chinh phục, để chinh phục bí mật của tự nhiên; dường
như bạn ở đây để làm mạnh cho ý chí của bạn và chi phối sự tồn tại. Điều này
không chỉ là ngu xuẩn, nó cũng là vô tích sự. Ngu xuẩn vì nó sẽ tạo ra địa ngục
quanh bạn, và vô tích sự vì chung cuộc bạn sẽ trở nên ngày càng chết hơn, ngày
càng ít sống hơn; bạn sẽ mất mọi khả năng của việc là phúc lạc. Và, đến cuối
cùng, bạn sẽ phải quay lại từ nó, bởi vì thỉnh thoảng bạn có thể đi trên con đường
của ý chí, nhưng chỉ thất vọng và nhiều thất vọng hơn sẽ xảy ra qua nó. Bạn sẽ
bị thất bại ngày càng nhiều. Bạn sẽ cảm thấy ngày càng bất lực hơn, và ngày
càng nhiều thù địch hơn sẽ bao quanh bạn. Bạn sẽ phải quay lại từ nó - miễn cưỡng,
chống lại, nhưng bạn sẽ phải quay lại nó. Chung cuộc, không ai có thể nghỉ ngơi
với thái độ tranh đấu, bởi vì với thái độ tranh đấu không nghỉ ngơi nào là có
thể, bạn không thể thảnh thơi được.
Con đường của tôn giáo là con
đường của tình yêu. Từ chính lúc bắt đầu bạn không tranh đấu với bất kì ai. Cái
toàn thể tồn tại cho bạn, và bạn tồn tại cho cái toàn thể, và có hài hoà bên
trong. Không ai ở đây để chinh phục bất kì ai khác. Điều đó là không thể được.
Bởi vì làm sao bộ phận này có thể chinh phục được bộ phận khác? Và làm sao bộ
phận có thể chinh phục được cái toàn thể? Đây là khái niệm ngớ ngẩn mà chỉ tạo
ra ác mộng cho bạn, không gì khác. Nhìn toàn thể tình huống này... bạn xuất
thân từ cái toàn thể và bạn tan biến vào trong nó, và, ở giữa, bạn là bộ phận của
nó mọi khoảnh khắc. Bạn thở nó, bạn sống nó, và nó thở qua bạn, nó sống qua bạn.
Cuộc sống của bạn là cuộc sống của nó không phải là hai điều - bạn chỉ như con
sóng trong đại dương.
Một khi bạn hiểu điều này, thiền
trở thành có thể. Một khi bạn hiểu điều này, bạn thảnh thơi. Bạn vứt đi mọi áo
giáp mà bạn đã tạo ra quanh bạn như sự an ninh. Bạn không còn sợ. Sợ biến mất
và yêu nảy sinh. Trong trạng thái này của yêu, trống rỗng xảy ra. Hay, nếu bạn
có thể cho phép trống rỗng xảy ra, yêu sẽ nở hoa trong nó. Yêu là hoa của trống
rỗng, trống rỗng toàn bộ - trống rỗng là tình huống. Nó có thể làm việc theo cả
hai cách.
Cho nên có hai kiểu tôn giáo. Một
kiểu tạo ra trống rỗng trong bạn và bao quanh bạn để cho việc nở hoa trở thành
có thể; bạn đã tạo ra tình huống, bây giờ hoa bật ra một cách tự động. Không thấy
kháng cự, hạt mầm đột nhiên nở thành hoa. Có bước nhảy trong bản thể bạn, sự
bùng nổ. Phật giáo và Thiền đi theo con đường này - họ tạo ra trống rỗng trong
và bao quanh bạn.
Cũng có con đường khác nữa, kiểu
tôn giáo thứ hai, cái tạo ra tình yêu trong bạn, cái tạo ra sùng kính trong bạn.
Meera và Chaitanya yêu nhau, và họ yêu toàn bộ sâu sắc tới mức họ thấy người
yêu của mình ở mọi nơi; trên mọi chiếc lá, trên mọi hòn đá, đều là chữ kí của
người yêu. Người đó ở mọi nơi. Họ nhảy múa vì không có gì khác để làm ngoài mở
hội. Và mọi thứ là sẵn sàng - chỉ lễ hội phải bắt đầu về phần bạn. Không cái gì
khác thiếu. Một bhakta, người yêu, đơn giản mở hội, tận hưởng. Và trong việc hưởng
tình yêu và lễ hội đó, bản ngã biến mất và trống rỗng theo sau.
Hoặc bạn tạo ra trống rỗng, như
Phật, Tilopa, Sekkyo, và những người khác; hoặc bạn tạo ra tình yêu, như Meera,
Chaitanya, Jesus. Tạo ra cái này và cái kia đi theo, bởi vì chúng không thể sống
tách rời, chúng không có sự tồn tại tách rời nào. Yêu là một mặt của trống rỗng;
trống rỗng không là gì ngoài yêu trong khía cạnh khác, chúng tới cùng nhau. Nếu
bạn đem cái này, bạn mời cái này, cái kia theo sau một cách tự động như cái
bóng của nó. Điều đó tuỳ thuộc vào bạn. Nếu bạn muốn theo con đường của thiền,
trở thành trống rỗng đi. Đừng bận tâm về yêu - nó sẽ tới theo cách riêng của
nó. Hay, nếu bạn thấy rất khó thiền, thế thì yêu, thế thì trở thành người yêu,
và thiền và trống rỗng sẽ đi theo bạn.
Đây là cách nó đáng phải vậy bởi
vì có hai kiểu tâm trí con người: nữ và nam. Tâm trí nữ tính có thể yêu dễ dàng
nhưng là trống rỗng lại khó. Và khi tôi nói tâm trí nữ tính, tôi không ngụ ý phụ
nữ, bởi vì nhiều nữ có tâm trí nam, và nhiều nam có tâm trí nữ. Cho nên họ
không tương đương. Khi tôi nói tâm trí nữ tính, tôi không ngụ ý thân thể nữ - bạn
có thể có thân thể nữ nhưng không có tâm trí nữ. Tâm trí nữ là tâm trí cảm thấy
yêu dễ dàng hơn, có vậy thôi. Đó là định nghĩa của tôi về tâm trí nữ tính: đó
là người cảm thấy yêu dễ dàng, tự nhiên, người có thể tuôn chảy trong tình yêu
mà không có nỗ lực nào. Tâm trí nam trong người có tình yêu là nỗ lực - người
đó có thể yêu nhưng người đó sẽ phải làm nó. Yêu không thể là toàn thể bản thể
của người đó - nó chỉ là một điều trong nhiều điều khác, thậm chí không phải là
quan trọng nhất. Người đó có thể hi sinh tình yêu của mình cho khoa học, người
đó có thể hi sinh tình yêu của mình cho đất nước, người đó có thể hi sinh tình
yêu của mình cho bất kì chuyện tầm thường nào, cho kinh doanh, cho tiền, cho
chính trị. Yêu không phải là thứ sâu sắc với người đó, tâm trí nam tính. Nó
không phải là vô nỗ lực như nó là vậy đối với tâm trí nữ tính. Thiền là dễ hơn.
Người đó có thể trở nên trống rỗng dễ dàng.
Cho nên đây là định nghĩa của
tôi: nếu bạn thấy là trống rỗng là dễ dàng, thế thì làm điều đó. Nếu bạn thấy
nó rất khó, thế thì đừng bất hạnh và đừng cảm thấy vô vọng. Bạn bao giờ cũng thấy
yêu dễ dàng hơn. Tôi đã không bắt gặp một người nào thấy cả hai điều này đều
khó. Cho nên, có hi vọng cho mọi người. Nếu thiền là khó, yêu sẽ dễ hơn, nó phải
như vậy. Nếu yêu dễ hơn, thiền sẽ khó. Nếu yêu là khó, thiền sẽ dễ hơn. Cho nên
cứ tự cảm thấy đi.
Và điều này không liên quan tới
thân thể bạn, không liên quan với cấu trúc vật lí của bạn, hooc môn của bạn.
Không. Nó là phẩm chất của bản thể bên trong của bạn. Một khi bạn thấy nó, mọi
sự trở nên rất, rất dễ dàng, bởi vì thế thì bạn sẽ không thử đường sai. Bạn có
thể thử một đường sai trong nhiều kiếp nhưng bạn sẽ không đạt tới cái gì. Và nếu
bạn thử trên đường đúng, ngay cả bước đầu tiên có thể là bước cuối cùng, bởi vì
bạn đơn giản, tự nhiên, tuôn chảy vào trong nó. Không cái gì giống như nỗ lực tồn
tại - bạn tuôn chảy một cách vô nỗ lực.
Thiền là dành cho tâm trí nam.
Tôi sẽ sớm làm cân bằng nó bằng việc nói về Sufi giáo, bởi vì Sufi giáo dành
cho tâm trí nữ. Đây là hai cực đoan - Thiền và Sufi giáo.
Người Sufi là người yêu, người
yêu lớn. Thực ra, trong toàn thể lịch sử của tâm thức con người, người yêu táo
bạo hơn người Sufis chưa bao giờ tồn tại, bởi vì họ là những người duy nhất đã
biến Thượng đế thành người yêu của họ. Thượng đế là đàn bà và họ là những người
yêu. Tôi sẽ sớm làm cân bằng.
Thiền nhấn mạnh vào cái trống rỗng,
đó là lí do tại sao trong Phật giáo không có khái niệm về Thượng đế, điều đó
không được cần. Mọi người ở phương Tây không thể hiểu được làm sao một tôn giáo
tồn tại mà không có khái niệm về một Thượng đế. Phật giáo không có khái niệm về
Thượng đế nào - không có nhu cầu, bởi vì Phật giáo nhấn mạnh và đơn giản là trống
rỗng, thế rồi mọi thứ theo sau. Nhưng ai bận tâm? Một khi bạn trống rỗng, mọi sự
sẽ lấy tiến trình riêng của nó. Tôn giáo tồn tại không có Thượng đế. Đây đơn giản
là phép màu. Ở phương Tây, những người viết về tôn giáo và triết học của tôn
giáo, bao giờ cũng bị rắc rối về làm sao định nghĩa tôn giáo. Họ có thể định
nghĩa Hindu giáo, Mô ha mét giáo, Ki tô giáo, một cách dễ dàng, nhưng Phật giáo
tạo ra rắc rối. Họ có thể định nghĩa Thượng đế là trung tâm của mọi tôn giáo,
nhưng thế rồi Phật giáo trở thành vấn đề. Họ có thể định nghĩa lời cầu nguyện
như bản chất của tôn giáo, nhưng lần nữa Phật giáo lại tạo ra rắc rối, bởi vì
không có Thượng đế và không có lời cầu nguyện, không mật chú, không cái gì. Bạn
chỉ phải trống rỗng. Khái niệm về Thượng đế sẽ không cho phép bạn là trống rỗng;
lời cầu nguyện sẽ là sự quấy rối; đạo đức giả sẽ không cho phép bạn là trống rỗng.
Đơn giản là trống rỗng, mọi thứ xảy ra. Trống rỗng là chìa khoá bí mật của Phật
giáo. Bạn hiện hữu theo cách mà bạn không có.
Để tôi giải thích một chút thêm
nữa về trống rỗng cho bạn, thế thì sẽ có thể đi vào trong giai thoại Thiền này.
Vật lí đã từng làm việc trong
ba trăm năm để tìm cơ sở, cái thật của vật chất, và họ đạt tới ngày càng sâu
hơn, họ càng bị phân vân hơn. Bởi vì họ dò dẫm càng sâu hơn, vật chất càng ít
tính thật hơn, vật chất ngày càng kém tính vật chất hơn. Và khi họ thực sự vớ
được cội nguồn của vật chất, họ đơn giản không thể tin được điều đó, bởi vì nó
chống lại mọi quan niệm của họ. Nó không là vật chất chút nào: nó đơn giản là
năng lượng. Năng lượng không là chất liệu. Nó không có trọng lượng. Bạn không
thể nhìn thấy được nó. Bạn chỉ có thể thấy hiệu quả của nó, bạn không bao giờ
có thể thấy nó một cách trực tiếp.
Eddington, năm 1930, nói rằng
chúng ta đã trong việc tìm kiếm vật chất, nhưng bây giờ mọi cái nhìn mới vào
trong vật chất đều chỉ ra rằng không có vật chất; nó có vẻ ngày càng giống như
ý nghĩ và ngày càng ít giống như vật. Đột nhiên sáng suốt của Phật lại trở nên
rất, rất có ý nghĩa, vì Phật đã làm cùng điều đó với vật chất con người, chất
liệu con người. Các nhà vật lí đã cố gắng xuyên thấu vào vật chất theo cách
khách quan để tìm ra cái gì có đó bên trong nó, và họ chẳng thấy gì cả. Trống rỗng
toàn bộ. Và cùng điều đó đã được Phật phát hiện ra trong cuộc hành trình bên
trong của ông ấy. Ông ấy đã cố tìm ra ai có đó bên trong - chất liệu con người
của tâm thức con người - nhưng ông ấy càng xuyên thấu, ông ấy càng trở nên nhận
biết rằng nó trở thành càng trống rỗng hơn. Và khi ông ấy đột nhiên đạt tới
chính cốt lõi, chẳng có gì cả. Mọi thứ đã biến mất. Ngôi nhà trống rỗng. Và
xung quanh cái trống rỗng này mọi thứ tồn tại. Trống rỗng là linh hồn của bạn,
cho nên Phật phải phát minh ra một từ mới mà chưa bao giờ tồn tại trước đây. Với
khám phá mới bạn phải đổi ngôn ngữ của bạn. Từ mới phải được tạo ra, bởi vì bạn
đã làm lộ ra chân lí mới và lời cũ không thể chứa được chúng. Phật phải tạo ra
từ mới. Ở Ấn Độ mọi người bao giờ cũng tin vào linh hồn trong thực tế, vào
atma, nhưng Phật đã khám phá ra rằng không có linh hồn, không có atma. Ông ấy
phải tạo ra một từ mới - anatta. Anatta nghĩa là vô ngã. Điều ẩn kín sâu nhất
trong bạn là cái trống rỗng - trạng thái của vô ngã. Bạn không hiện hữu; bạn chỉ
dường như hiện hữu.
Để tôi giải thích cho bạn theo
cách khác vì nó là một trong những điều khó hiểu nhất. Cho dù bạn hiểu về mặt
trí tuệ, gần như không thể tin cậy được vào nó. Bạn không hiện hữu sao? Hiện hữu
của bạn dường như được coi là đương nhiên. Và bạn bao giờ cũng có thể hỏi câu hỏi
ngu xuẩn. Phật đã được hỏi đi hỏi lại: Nếu thầy không hiện hữu, thế thì ai đang
nói? Nếu thầy không hiện hữu, thế thì ai trở nên đói? Và ai cứ ăn xin trong thị
trấn? Nếu thầy không hiện hữu, thế thì ai đang đứng trước tôi?
Hoàng đế Vũ, ở Trung Quốc, đã lập
tức hỏi Bồ đề đạt ma: Nếu ông nói rằng ông không hiện hữu và là cái không, và
trống rỗng là chính bản chất của bản thể bên trong của ông, thế thì cái anh
chàng đang nói với ta đây là ai vậy, kẻ đang đứng trước ta?" Bồ đề đạt ma
nhún vai và nói: "Ta không biết."
Không ai biết, và Phật nói rằng
không ai có thể biết, bởi vì nó không phải là chất liệu mà bạn có thể đương đầu
như một đối thể; nó là vô bản chất, bạn không thể đương đầu với nó được. Điều
này Phật gọi là nhận ra: khi bạn đi tới hiểu rằng cái trống rỗng bên trong nhất
không thể được biết, nó là không thể nào biết được, thế thì bạn đã trở thành
người nhận ra.
Điều đó là khó, cho nên để tôi
giải thích nó lần nữa cho bạn. Bạn đi tới rạp chiếu phim. Cái gì đó hay đang xảy
ra ở đó. Màn ảnh trống rỗng. Thế rồi máy chiếu bắt đầu làm việc. Màn ảnh biến mất
vì hình ảnh được chiếu che giấu nó hoàn toàn. Và những ảnh được chiếu này là
gì? Chẳng là gì ngoài sự nô đùa của ánh sáng và bóng. Bạn thấy ai đó phóng chiếc
giáo trên màn hình, chiếc giáo bay nhanh. Nhưng đích xác cái gì đang xảy ra?
Chuyển động chỉ là hình dáng, nó không phải là việc xảy ra. Nó không thể xảy ra
được. Thực ra phim chuyển động không phải là phim chuyển động chút nào đâu, bởi
vì nó không có chuyển động; mọi ảnh đều là tĩnh. Nhưng hình dáng được tạo ra
qua thủ đoạn. Thủ đoạn là ở chỗ nhiều ảnh tĩnh về chiếc giáo ở các vị trí khác
nhau được loé lên trên màn ảnh nhanh tới mức bạn không thể thấy được lỗ hổng giữa
hai ảnh - và bạn có cảm giác rằng chiếc giáo đang chuyển động. Tôi giơ tay lên.
Bạn chụp hàng trăm ảnh của tay tôi ở các vị trí khác nhau và thế rồi loé chúng
lên nhanh tới mức mắt không thể bắt được lỗ hổng giữa hai ảnh. Thế thì bạn sẽ
thấy tay đang được giơ lên. Một trăm ảnh tĩnh, hay một triệu ảnh tĩnh, được chiếu
lên và chuyển động được tạo ra. Và nếu phim là phim ba chiều và ai đó đang
phóng chiếc giáo, bạn có thể bị nó thu hút nhiều tới mức bạn có thể nghiêng người
sang phải hay sang trái để tránh chiếc giáo. Khi phim ba chiều đi vào sự tồn tại
lần đầu tiên, chúng đã làm mọi người hoảng sợ. Với một con ngựa phi về phía bạn,
bạn trở nên sợ hãi vì ngựa chẳng mấy chốc đi vào trong phòng; và bạn thậm chí
còn nghiêng người sang phải hay trái, như hoàn cảnh có thể, để tránh va chạm.
Chuyển động là giả, nó không xảy ra ở đó, nó chỉ là những ảnh tĩnh chuyển qua
nhanh. Và tính giả đó không hiển nhiên chừng nào bạn chưa xem phim chuyển rất
chậm, được chiếu rất chậm.
Cùng điều đó, theo nghĩa khác,
đang xảy ra trong cuộc sống. Ý nghĩ được phóng chiếu bởi tâm trí bạn nhanh tới
mức bạn không thể thấy lỗ hổng giữa hai ý nghĩ. Màn ảnh hoàn toàn bị che phủ bởi
ý nghĩ và chúng chuyển nhanh tới mức bạn không thể thấy được rằng từng ý nghĩ
là tách rời. Đó là điều Tilopa nói: Ý nghĩ giống như mây, không gốc gác gì,
không nhà. Và ý nghĩ này không liên quan tới ý nghĩ khác; một ý nghĩ là một đơn
vị cá nhân, cũng giống như hạt bụi, tách rời. Nhưng chúng chuyển động nhanh thế
bạn không thể thấy được lỗ hổng ở giữa. Bạn cảm thấy chúng có một đơn vị, một
liên kết nào đó.
Liên kết đó là khái niệm giả,
nhưng bởi vì liên kết đó, bản ngã được tạo ra.
Phật nói: Ý nghĩ chuyển nhanh tạo
ra ảo tưởng, dường như có trung tâm nào đó cho chúng, dường như chúng có liên
quan tới một vật. Chúng không có liên quan, chúng là không gốc gác - như mây.
Khi bạn thiền bạn sẽ hiểu rằng từng ý nghĩ riêng lẻ là ý nghĩ cá nhân, không có
liên quan tới ý nghĩ khác. Giữa hai ý nghĩ là cái trống rỗng của hiện hữu của bạn.
Chúng tới và đi, nhưng chúng tới và đi nhanh tới mức bạn không thể thấy được khoảng
hở. Bản ngã được tạo ra.
Và thế rồi bạn bắt đầu cảm thấy
rằng có ai đó như trung tâm trong bạn mà với nó mọi thứ thuộc vào - ý nghĩ,
hành động. Nhưng Phật nói rằng không có ai bên trong bạn. Khi bạn đi sâu hơn bạn
sẽ hiểu chân lí của nó: đó không phải là học thuyết triết lí.
Phật có thể bị đánh bại rất dễ
dàng bằng biện luận; ông ấy đã bị tống ra khỏi đất nước này bởi vì người Ấn Độ
là những kẻ biện luận lớn. Họ đã chẳng làm gì khác trong năm nghìn năm ngoài
tranh luận, và qua tranh luận Phật có thể bị đánh bại bởi vì toàn thể sự việc
dường như là ngớ ngẩn. Phật đang nói rằng có hành động, không có người làm; có
ý nghĩ, không có người nghĩ; có đói, có no; có ốm, có khoẻ; nhưng không có
trung tâm để cho tất cả chúng thuộc vào. Chúng chỉ như mây bay trong bầu trời rỗng,
không liên quan với nhau chút nào. Qua kinh nghiệm không ai có thể đánh bại được
Phật, nhưng qua logic điều đó rất đơn giản.
Chẳng mấy chốc Phật trở nên nhận
biết rằng qua logic ông ấy có thể bị đánh bại rất dễ dàng. Vậy phải làm gì? Ấn Độ
có những học giả lớn vào những ngày đó, các bác học lớn, các nhà logic lớn, những
người chẻ sợi tóc. Cho nên Phật đơn giản tuyên bố: Ta không phải nhà siêu hình,
ta không là triết gia, và ta không có học thuyết nào đưa ra. Đây không phải là
kết luận của trí tuệ của ta. Nếu ai đó muốn hiểu chúng, người đó sẽ phải tới và
sống cùng ta, và làm bất kì cái gì ta nói. Và sau một năm, nếu người đó sống
cùng ta một cách im lặng trong thiền, thế thì ta sẵn sàng tranh luận với người
đó, không bao giờ trước đó.
Và chuyện xảy ra là mặc dầu nhiều
học giả mới đã tới ông ấy, đây là điều kiện của ông ấy. Sariputta tới. Ông ta
là học giả rất nổi tiếng, và ông ta có năm trăm đệ tử riêng. Họ là những học giả
lớn theo quyền riêng của họ: họ biết mọi điều về Veda, họ biết mọi điều về
Upanishad, họ biết mọi trí huệ của các thế kỉ, và họ có trí tuệ rất, rất sắc sảo.
Sariputta tới và Phật nói: "Ông đã tới, điều đó là tốt. Nhưng trong một
năm ông phải vẫn còn im lặng, bởi vì ta không có học thuyết nào để đề nghị, cho
nên không có khả năng nào cho bất kì tranh luận nào. Ta có cái gì đó trong hiện
hữu của ta để chia sẻ, nhưng không có học thuyết nào để đề nghị. Cho nên, nếu
ông thích, ông có thể ở đây."
Thế rồi Maulingaputta tới, một
học giả lớn khác, và Phật nói cùng điều đó với ông ấy: "Trong một năm ông
ngồi im lặng bên cạnh ta, không nêu ra một câu hỏi nào. Trong một năm ông phải
để tâm trí ông chìm xuống và xuyên thấu vào các khoảng hở. Sau một năm, đích
xác một năm, nếu ông có câu hỏi, ta sẽ trả lời."
Sariputta cũng ngồi ở đó. Ông ấy
bắt đầu cười.
Maulingaputta hỏi: "Có
chuyện gì vậy? Sao ông cười?"
Sariputta nói: "Đừng bị lừa
bởi người này. Nếu ông phải hỏi cái gì, hỏi ngay đi, bởi vì sau một năm ông sẽ
không có khả năng hỏi cái gì đâu. Điều này đã xảy ra cho tôi rồi. Một năm, thiền
một cách im lặng, câu hỏi biến mất. Một năm, thiền một cách im lặng, tâm trí biện
luận biến mất, và người biện luận biến mất. Một năm, ngồi bên cạnh người này,
người ta trở thành trống rỗng; và thế rồi ông ấy cười, và thế rồi ông ấy giở thủ
đoạn, và thế rồi ông ấy nói: 'Bây giờ ông hỏi đi. Các học thuyết và nguyên lí
và luận cứ của ông đâu rồi?' Và chẳng cái gì nảy sinh bên trong. Cho nên,
Maulingaputta ơi, nếu ông phải hỏi, ngay bây giờ là khoảnh khắc đấy - bằng
không thì không bao giờ đâu."
Phật nói: "Ta sẽ hoàn
thành lời hứa của ta. Nếu ông vẫn còn ở lại một năm và nếu ông có bất kì câu hỏi
nào, ta sẽ trả lời, dù câu hỏi là bất kì cái gì." Maulingaputta ở lại. Một
năm trôi qua. Ông ấy quên hoàn toàn về một năm đã qua và ngày đó đã quay lại;
nhưng Phật nhớ. Sau một năm, vào đích xác ngày đó, ông ấy nói với
Maulingaputta: "Bây giờ ông đứng lại, Maulingaputta, và ông có thể hỏi."
Maulingaputta đứng đó im lặng,
với mắt nhắm, và ông ấy nói: "Chẳng có gì để hỏi, và không có người để hỏi.
Tôi đã hoàn toàn biến mất."
Phật giáo là kinh nghiệm và Thiền
là cái thuần khiết nhất của mọi giáo huấn của Phật - chính điều tinh tuý. Và
trung tâm quanh đó toàn thể kinh nghiệm chuyển động là trống rỗng.
Làm sao trở nên trống rỗng? Đó
là điều thiền tất cả là gì: cách trở nên im lặng tới mức bạn thậm chí không thể
thấy được bản thân mình - bởi vì điều đó nữa là sự nhiễu loạn. Cảm thấy rằng
'tôi đây' cũng là sự rối loạn - ngay cả điều đó. Người ta hoàn toàn bị xoá đi,
bị xoá toàn bộ. Tờ giấy sạch bách, nó trở thành tựa bầu trời mùa hè - mây không
có đó, chỉ chiều sâu, mầu thanh thiên vô hạn, không chấm dứt ở đâu, không bắt đầu
ở đâu. Đây là điều Phật gọi là anatta, trung tâm bên trong nhất của vô hiện hữu,
của vô ngã. Phật nói: "Ông bước đi, nhưng không có người bước; ông ăn,
nhưng không có người ăn; ông được sinh ra, nhưng không có người nào được sinh
ra. Ông sẽ ốm, và ông sẽ trở nên già, nhưng không có người nào trở nên ốm và trở
nên già. Và ông sẽ chết, nhưng không có người nào chết. Và đây là điều cuộc sống
vĩnh hằng là gì... không được sinh ra, làm sao ông có thể chết? Không hiện hữu ở
đó, làm sao ông có thể ốm hay khoẻ?
Những điều này xảy ra, và nếu bạn
trở thành nhân chứng sâu cho chúng, dần dần bạn sẽ biết rằng chúng xảy ra theo
cách riêng của chúng. Chúng không liên quan tới bạn. Chúng không xảy ra trong mối
quan hệ với bạn theo bất kì cách nào. Không liên quan, vô gia cư, không gốc gác
- đây là chứng ngộ hoàn toàn.
Biết điều này, rằng mọi sự xảy
ra, như mơ, người ta không bị bận tâm theo cách này hay cách nọ, người ta không
hạnh phúc không bất hạnh. Người ta đơn giản không hiện hữu. Phật nói: "Ông
không bao giờ có thể hạnh phúc, bởi vì, trong chính sự nhấn mạnh rằng ông hạnh
phúc, bất hạnh ẩn kín. Ông không bao giờ có thể được giải thoát, bởi vì ông là
tù túng. Giải thoát không phải là của ông, giải thoát là từ ông".
Đây là cốt lõi sâu nhất đã từng
được chạm tới, cốt lõi sâu nhất. Mahavira nói: "Ông sẽ được chứng ngộ."
Phật nói: "Ông là chướng
ngại."
Mahavira nói: "Ông sẽ sống
trong moksha, trong trạng thái tối thượng của tâm thức - phúc lạc, phúc lạc
vĩnh hằng."
Phật nói: "Chừng nào ông
chưa chết, ông sẽ không bao giờ đạt tới trạng thái đó."
Bạn là rào chắn duy nhất, chướng
ngại duy nhất, vật cản duy nhất. Khi bạn không hiện hữu, trạng thái đó hiện hữu.
Trạng thái đó không phải là của bạn, bạn không thể đòi nó; thực ra, bởi vì bạn
hiện hữu, bạn không cho phép trạng thái đó hiện hữu. Nó đã ở đây bên trong bạn,
chính khoảnh khắc này, nhưng bạn không cho phép nó vận hành. Bạn cố kiểm soát
nó, thao túng nó. Bản ngã là kẻ thao túng lớn, kẻ kiểm soát, và toàn thể nỗ lực
của mọi chư phật là làm sao vứt bỏ kiểm soát. Một khi kiểm soát bị vứt bỏ, người
kiểm soát biến mất. Đó là điều tôi đang cố làm với bạn với nhiều cách thiền
này. Nỗ lực là làm sao vứt bỏ kiểm soát, làm sao vứt bỏ kẻ thao túng lớn này.
Bạn xoay tít trong điệu vũ
Dervish. Lúc ban đầu bạn có đó. Chẳng mấy chốc bạn cảm thấy buồn nôn, nhưng buồn
nôn đó không chỉ về thể chất, nó là tâm linh sâu sắc. Bạn bắt đầu cảm thấy buồn
nôn khi một khoảnh khắc tới cho việc kiểm soát bị vứt bỏ. Khi khoảnh khắc đó tới
gần, bạn bắt đầu cảm thấy buồn nôn. Buồn nôn là ở chỗ kiểm soát đang bị mất. Bạn
cảm thấy chóng mặt; bạn cảm thấy rằng bạn có thể ngã xuống. Đây không chỉ là những
điều vật lí - sâu bên trong bản ngã đang cảm thấy dường như nó đang bị ném ra
khỏi đường. Bản ngã đang cảm thấy chóng mặt. Nó đang cảm thấy rằng nếu việc
xoay tít này tiếp tục cho dù lâu hơn chút nữa, cái tôi sẽ không có khả năng có
đó. Bạn bắt đầu cảm thấy muốn nôn. Thực ra, muốn nôn đó không chỉ là vật lí, chỉ
một phần là vật lí, phần sâu hơn là nôn của bản ngã. Nếu bạn tiếp tục cảm thấy
bị rối loạn, sẽ có nôn vật lí, nhưng nếu bạn không bận tâm về nó, chẳng mấy chốc
nôn vật lí sẽ biến mất. Và thế thì nôn thực sẽ xuất hiện: một ngày nào đó, bản
ngã bị nôn ra. Đột nhiên một hiện tượng xấu xí bên trong bạn thoát ra; đột
nhiên bệnh tật từ bạn bị tống ra; đột nhiên bạn không có bản ngã. Điều đó xảy
ra một cách bất thần. Khi nó xảy ra lần đầu tiên, bạn thậm chí không thể tin được
vào nó; bạn không thể tin được rằng, không có bản ngã, bạn vẫn có. Không có người
nào bên trong, và bạn có; và bạn hoàn hảo thế và đẹp thế và phúc lạc thế -
không có người nào ở đó!
Bản ngã phải bị tống ra khỏi
trung tâm, bởi vì nó đã trở thành được bắt rễ sâu sắc thế trong tâm trí bạn,
qua nhiều kiếp. Nó đã tiếm quyền toàn thể bản thể; trống rỗng đã bị tống vào bối
cảnh, vào vô thức, và bản ngã đã tiếm quyền ngai vàng. Bây giờ bản ngã đã trở
thành vua, và nó cứ thao túng mọi thứ.
Chuyện ngụ ngôn này, giai thoại
nhỏ này, sẽ cho bạn biết nhiều điều về cách bản ngã có thể bị tống ra khỏi
trung tâm.
Sekkyo nói với một trong những
sư của mình:
"Ông có thể bắt giữ cái trống
rỗng không?"
"Tôi sẽ thử," sư này
nói,
Và sư khum tay trong không
trung.
Thầy đang giở thủ đoạn. Thầy hỏi:
"Ông có thể bắt giữ cái trống rỗng không?" Câu hỏi này là thủ đoạn,
và nếu đệ tử này có hiểu biết nào, anh ta chắc đã không thử. Chính nỗ lực để bắt
giữ cái trống rỗng là ngu xuẩn. Bạn có thể bắt giữ cái gì đó, bạn không thể bắt
giữ cái không. Làm sao bạn có thể bắt giữ cái không? Đệ tử này vẫn cảm thấy rằng
cái trống rỗng là cái gì đó; anh ta vẫn cảm thấy rằng trống rỗng là không trống
rỗng - nó là cái tên, cái nhãn của cái gì đó mà có thể được bắt giữ. Nếu anh ta
có chút ít hiểu biết, cho dù chút ít hiểu biết thôi, anh ta chắc đã làm cái gì
đó khác hơn việc bắt giữ cái trống rỗng. Đó là phép thử.
Có câu chuyện mà thầy hỏi đệ tử:
"Ông có thể bắt giữ cái trống rỗng không?" và đệ tử tóm lấy mũi thầy
và véo mạnh - điều đó sẽ là tuyệt đối đúng. Bởi vì câu hỏi này là ngớ ngẩn. Bất
kì cái gì bạn thử đều sẽ sai từ chính lúc bắt đầu. Không cái gì sẽ có ích.
Đây là công án Thiền. Thiền sư
cho bạn một vấn đề ngớ ngẩn, điều không thể được giải. Không có câu trả lời cho
nó.
Tôi đã nghe nói về một cửa hàng
đồ chơi đâu đó ở Mĩ. Người bố mua một đồ chơi thách đố cho con anh ta. Anh ta
thử lắp nó, và anh ta đã thử và thử nhiều cách, nhưng cái gì đó bao giờ cũng
sai, nó không có tác dụng. Cho nên anh ta hỏi người quản lí cửa hàng:
"Ngay cả tôi cũng không thể làm ra đầu cua tai nheo từ cái này, làm sao
ông giả định rằng trẻ nhỏ sẽ có khả năng làm được?" Người quản lí nói:
"Không ai có thể làm được nó. Điều này chỉ cho đứa trẻ mùi vị của cuộc sống
hiện đại. Nó không được ngụ ý hiện hữu, không ai có thể làm được nó, nó không
thể được gắn lại. Bộ phận, các bộ phận khác, không được làm để gắn lại."
Điều này chỉ là để cho mùi vị của
cuộc sống hiện đại: bất kì cái gì bạn làm, không cái gì là sẵn có, đến cuối bạn
sẽ cảm thấy thất vọng. Làm cái này hay cái nọ, có cả triệu phương án, nhưng tất
cả đều sai, vì sai từ chính lúc đầu. Câu đố không phải là câu đố, mà là điều ngớ
ngẩn. Câu đố là điều có thể được giải bằng thông minh nào đó. Điều ngớ ngẩn là ở
chỗ bởi chính bản chất của nó, nó là không giải được, không thể được giải. Công
án là câu đố ngớ ngẩn.
Thầy nói: "Ông có thể bắt
giữ cái trống rỗng không?"
Bây giờ, từ chính lúc bắt đầu,
bất kì giải pháp nào cũng đều bị ngăn cản. Trong chính việc nói ra vấn đề thầy
đã tạo ra điều ngớ ngẩn. Làm sao bạn có thể bắt giữ được cái không? Tất nhiên bạn
có thể bắt giữ cái gì đó. Nhưng cái không sao? Trống rỗng sao? Mọi nỗ lực của bạn
đều mang định mệnh thất bại từ chính lúc bắt đầu. Và đây là toàn thể sự việc:
thầy đang cố giúp đệ tử trở nên nhận biết, nhưng bản ngã lập tức nhận vấn đề và
bắt đầu thử giải nó. Nó trở thành thách thức.
Đó là lí do tại sao nhiều người
thử câu đố chữ chéo, thế này và thế nọ. Cứ nhìn vào báo chí bản ngã của họ bị
thách thức; họ phải giải nó, bằng không nó sẽ ám ảnh họ. Họ thông minh thế, làm
sao câu đố này có thể tồn tại được? Họ sẽ phải giải nó, nó trở thành nỗi ám ảnh.
Hàng triệu người phí hàng triệu giờ để giải những điều ngu xuẩn. Bản ngã nhận
thách thức.
Khi thầy nói: "Ông có thể
bắt giữ cái trống rỗng không?" anh ta kích động bản ngã, và bản ngã là thứ
ngu xuẩn nhất trong cuộc sống con người. Bạn có thể kích động nó bằng bất kì
cái gì - bởi bất kì cái gì.
Tại mục quảng cáo trên báo chí:
Bạn có ga ra hai xe không, hay chỉ ga ra một xe? - lập tức bản ngã cảm thấy bị
rối loạn bởi vì người khác có ga ra hai xe, và bạn có ga ra chỉ một xe. Cuộc đời
bạn bị phí hoài. Bạn tồn tại chẳng vì cái gì. Đi nhanh lên, vay tiền đi. Làm
cái gì đó đi! Cho dù bạn bị ung thư trên đường, cũng được. Ung thư người ta có
thể chịu được, nhưng người ta không thể chịu được việc có ga ra một xe. Tự tử,
nhưng bạn phải có ga ra hai xe. Bản ngã là thứ ngu xuẩn nhất, và toàn thể chợ
những người bán hàng và người quảng cáo tuỳ thuộc vào bản ngã của bạn. Họ kích
động bản ngã: họ khai thác bạn. Và khó mà ngăn cản được họ chừng nào bạn chưa vứt
bỏ bản ngã. Họ sẽ cứ tiếp diễn mãi. Xe lớn trở thành biểu tượng bản ngã.
Tôi đã nghe nói rằng Mulla
Nasruddin đi Mĩ. Trong thị trấn của mình anh ta chưa bao giờ thấy xe nào lớn
hơn chiếc Fiat. Khi anh ta thấy chiếc xe lớn thế anh ta đơn giản phân vân: Gọi
chúng là gì? Bởi vì chúng không phải là xe hơi, chúng không phải là xe bus; và
trong chiếc xe lớn thế chỉ một người ngồi hay một con chó. Vấn đề là gì vậy?
Anh ta thấy những nhà lớn thế - gọi chúng là gì? Trong thị trấn của anh ta một
ngôi nhà hai tầng được gọi là ATARI, lâu đài. Thế rồi anh ta thấy nhà một trăm
tầng. Tâm trí anh ta do dự. Bạn không thể gọi nó là nhà được, bạn không thể gọi
nó là lâu đài được - dường như đơn giản không có lời nào dành cho nó.
Và thế rồi anh ta thấy thác
Niagara. Anh ta nhắm mắt lại và anh ta nói: "Dường như tôi đang thấy giấc
mơ." Anh ta có một thác nước nhỏ, thị trấn của anh ta có thác đổ, nhưng nó
chảy chỉ trong mùa mưa. Đây là cái gì? Và anh ta trở nên phân vân tới mức thậm
chí không thể ca ngợi thứ lớn thế, vô cùng thế; và anh ta không có khả năng nói
gì với người hướng dẫn. Cho nên anh ta bắt đầu cảm thấy mặc cảm - anh ta đáng
phải nói cái gì đó.
Thế rồi anh ta bắt gặp một dòng
sông nhỏ. Thế là Mulla Nasruddin nghĩ: Đây là cơ hội đây. Và anh ta nói:
"Dường như bộ tản nhiệt xe của ai đó đang rò rỉ."
Mọi thứ cứ trở nên ngày càng lớn
hơn và lớn hơn chỉ bởi vì bản ngã. Chúng là không được cần. Không tồn tại nhu cầu
cho chúng. Cuộc sống trở nên ngày một phức tạp hơn bởi vì bản ngã ngu xuẩn. Và
một khi nó nhận thách thức, nó bao giờ cũng sẵn sàng nhận thách thức, thậm chí
không hỏi liệu điều này là có thể, không thể, hợp lí, bất hợp lí.
Thầy Sekkyo nói:
"Ông có thể bắt giữ cái trống
rỗng không?"
"Tôi sẽ thử," sư này
nói,
Đây là câu trả lời của bản ngã:
tôi sẽ thử. Nó nhận mọi loại thách thức và công án là thách thức lớn. Công án
được làm theo cách bạn không thể giải được nó. Và thử giải nó, bạn sẽ trở nên nhận
biết rằng mọi nỗ lực của bạn để giải nó, đó là ngu ngốc. Trong việc cố gắng giải
nó, bạn sẽ trở nên nhận biết rằng bạn đã nhận thách thức này. Điều đó là sai.
Người nói bên trong bạn: Tôi sẽ thử và tôi sẽ làm, là bất lực.
Công án được trao cho đệ tử để
cảm thấy sự bất lực - rằng bạn không thể làm được nó - để cảm thấy không thể tự
lo liệu được, bởi vì bản ngã có thể biến mất chỉ trong trạng thái không thể tự
lo được, bằng không thì không đâu. Bản ngã có thể biến mất chỉ khi nó là thất bại
toàn bộ; khi thậm chí không có một hơi chút khả năng nào của thành công của nó
tồn tại. Chỉ thế thì mới được, bằng không nó có thể cứ hi vọng rằng nó sẽ làm
cái gì đó khác, hay cái gì đó khác, và nó sẽ thử phương án này khác. Phải tồn tại
một khả năng cho cái trống rỗng bị bắt, cho bạn bắt giữ nó: Tôi sẽ thử. Bao giờ
cũng nhớ quan sát trước khi bạn nói: Tôi sẽ thử. Đừng cho phép bản ngã bước
vào. Chỉ quan sát. Thông minh đi, đừng có tính bản ngã. Thông minh là tốt. Có
tính bản ngã thực ra cản trở vận hành thông minh của bạn. Một điều đơn giản thế.
Đệ tử này nên đánh thầy, ngay lúc đó ở đó. Thầy đang bảo tôi kiểu vô nghĩa gì vậy?
Nhưng mọi người đã cố gắng giải
quyết mọi loại điều vô nghĩa, bởi vì bản ngã nói: Phải có cách nào đó chứ. Bản
ngã nói: Nếu vấn đề tồn tại, giải pháp phải tồn tại. Sự cần thiết là gì? Bạn có
thể tạo ra vấn đề, nhưng không có sự cần thiết về bản chất cho giải pháp tồn tại.
Và, như tôi đã quan sát, chín
mươi chín phần trăm vấn đề của triết học là ngu xuẩn. Chúng không thể được giải
quyết, nhưng những tâm trí vĩ đại bị dính líu vào việc giải chúng. Chẳng hạn, vấn
đề đơn giản như: Ai đã tạo ra thế giới? là ngu xuẩn, nhưng các nhà thượng đế học
vĩ đại, những người tôn giáo, học giả phí hoài cả đời họ vào chúng. Trong hàng
nghìn năm nhiều người đã từng lo nghĩ về ai tạo ra thế giới. Và điều đó không
thể được giải quyết; nó là công án. Nó là ngớ ngẩn, bởi vì chính câu hỏi này là
tới mức, bản chất của nó là tới mức bất kì cái gì bạn làm, nó sẽ lại nhảy lên
và đứng trên chân của nó, nó sẽ không bị giết.
Chẳng hạn, nếu bạn nói: A đã tạo
ra thế giới, ngay lập tức câu hỏi có đó: Ai đã tạo ra A? B tạo ra A. Thế thì
câu hỏi có đó: Ai đã tạo ra B? Bạn cứ thế tiếp diễn, và chung cuộc, chỉ chán
ngán với toàn thể chuyện này, bạn sẽ phải nói: Z này, không ai tạo ra Z này.
Nhưng sao lấy Z? Sao không nói ngay chỗ đầu tiên rằng không ai tạo ra thế giới
này? Sao phải đi từ A tới Z? Khi bạn phải nhân nhượng rằng không ai đã tạo ra
Thượng đế, thế thì tại sao nói rằng Thượng đế tạo ra thế giới? Nếu Thượng đế có
thể tồn tại mà không được tạo ra, thế thì sao sự tồn tại này không được ai tạo
ra? Dường như không có lí do nào. Nhưng mọi người cứ thế, và họ nghĩ rằng họ
đang làm tư duy tôn giáo rất nghiêm chỉnh. Đây không phải là tư duy tôn giáo
chút nào; thực ra, không tư duy mới là tôn giáo. Không tư duy là tôn giáo.
Bạn có thể bắt giữ trống rỗng
được không? Vô nghĩa làm sao! Trống rỗng là cái không, làm sao bạn có thể bắt
giữ nó được? Nó không có biên giới, không giới hạn cho nó, điều đó là không thể
được, nhưng bản ngã nói: Tôi sẽ thử.
"Tôi sẽ thử," sư này
nói,
Và sư khum tay trong không
trung.
Anh ta không chỉ nói điều đó,
anh ta đã thử - anh ta khum tay trong không khí. Bạn có thể nghĩ rằng bạn chắc
đã làm tốt hơn. Bạn sẽ làm gì? Bất kì cái gì bạn làm, tôi nói nó sẽ là như nhau
cả. Bạn nhảy theo cách này và cách nọ, và cố bắt giữ - bạn đơn giản sẽ có vẻ
ngu xuẩn.
...Và sư khum tay trong không
trung.
"Điều đó không thật tốt
đâu," Sekkyo nói,
"ông không thu được cái gì
ở đó."
Có cái gì đó cần được hiểu ở
đây - nếu bàn tay bạn mà mở, trống rỗng có đó; nếu bàn tay bạn mà nắm lại, trống
rỗng đã biến mất. Trong nắm tay không có không gian; trong tay mở toàn thể bầu
trời có đó, nhưng nó là trong bàn tay mở. Nghĩa là rất tinh tế, nhưng rất hay -
nếu bạn cố bắt giữ nó bạn sẽ bỏ lỡ, nếu bạn không cố nó đã có đó. Nếu bạn không
thử, trong tay mở của bạn toàn thể bầu trời tồn tại; không cái gì ít hơn điều
đó. Nếu bạn thử bắt giữ bầu trời, và bạn làm ra nắm tay từ bàn tay bạn, mọi thứ
đã biến mất.
Cái gì có đó trong nắm tay của
bạn? Có thể chút ít không khí tù đọng - và điều đó nữa cũng chỉ ra rằng nắm tay
là không đích xác hoàn toàn. Đó là lí do tại sao. Nếu nắm tay là đích xác hoàn
toàn, toàn thể bầu trời đã biến mất khỏi nó.
Điều tối thượng đã có đó rồi;
không nỗ lực nào được cần để có nó. Trong chính nỗ lực đó bạn bỏ lỡ và đánh mất
và đi lạc lối.
Một người tới Lin Chi, một Thiền
sư lớn, và nói: "Tôi rất băn khoăn. Tôi muốn bản thân mình trở thành Phật.
Phải làm gì?" Lin Chi đuổi anh ta ra khỏi đền bằng chiếc thiền trượng. Ông
ấy đánh thẳng cánh anh ta, người này bắt đầu chạy, và ông ấy đuổi anh ta ra khỏi
đền. Ai đó đang đứng bên cạnh nói: "Điều này là quá nghiêm khắc. Người
đáng thương này đã không hỏi điều gì sai. Anh ta đơn giản hỏi câu hỏi rất tôn
giáo, và anh ta trông rất chân thành - thầy phải đã nhìn vào mắt anh ta, mặt
anh ta. Anh ta thực sự đã du hành trên con đường dài tới thầy, và anh ta đã hỏi
một câu hỏi tôn giáo đơn giản chân thành: làm sao trở thành vị Phật. Và điều thầy
đã làm dường như là quá khắc nghiệt với người đánh thương này, và không công bằng."
Lin Chi nói: "Ta đuổi anh ta ra bởi vì anh ta đang hỏi điều ngớ ngẩn. Anh
ta đã là vị Phật rồi. Nếu anh ta thử, anh ta sẽ lỡ, và nếu anh ta có thể hiểu
được tại sao ta đánh anh ta và đuổi anh ta ra, thế thì anh ta nên bỏ mọi nỗ lực
- không có gì để được đạt tới, anh ta chỉ phải là bản thân mình. Anh ta phải chỉ
là bất kì cái gì anh ta đang là."
Chùng lỏng và tự nhiên, điều
Tilopa nói, và thế rồi Phật đã có đó trong điện thờ bên trong. Người ta phải
không trở thành Phật, người ta được sinh ra bao giờ cũng là vị Phật rồi. Phật
tính là bản tính bản chất bên trong nhất của bạn. Bạn không cần hỏi về nó: bạn
không cần thử về nó.
Người tìm kiếm nghèo này đi tới
thầy khác, cứ tưởng rằng Lin Chi này là điên: Mình hỏi một câu hỏi đơn giản và
ông ta đánh mình rõ đau, và thế rồi còn đuổi mình ra khỏi đền. Ông ta hoàn toàn
mất trí. Anh ta đi sang thầy khác, một thầy đối lập với Lin Chi. Họ có tu viện ở
cạnh bên trên cùng quả đồi. Anh ta tới đó. Anh ta cảm thấy: Người này sẽ là
đúng, bởi vì người này đối lập với Lin Chi. Và bây giờ mình biết tại sao ông ấy
đối lập.
Anh ta đi tới thầy, thầy kia và
hỏi cùng câu hỏi. Thầy nói: "Ông đã bao giờ ở cùng với thầy nào khác trước
đây chưa?" Anh ta nói: "Dạ có. Nhưng đi tới đó là sai của tôi. Tôi đã
tới gặp Lin Chi. Ông ta đã đánh đau tôi, và đuổi tôi ra khỏi đền." Đột
nhiên, thầy này trở nên rất dữ tợn dường như muốn giết anh ta. Thầy rút kiếm ra
khỏi bao, và người này muốn chạy. Thầy nói: "Ông nghĩ gì? Ông cho rằng ta
là người dốt sao? Nếu Lin Chi có thể làm điều đó, ta sẽ giết ông hoàn
toàn."
Anh ta hỏi ai đó về cách phải
làm gì. Người này nói: "Ông quay lại với Lin Chi đi, ông ấy còn từ bi
hơn." Và anh ta quay lại. Khi anh ta quay lại Lin Chi hỏi: "Tại sao
ông quay lại?" Anh ta nói: "Người kia là nguy hiểm, còn nguy hiểm hơn
thầy. Ông ấy chắc đã giết tôi hoàn toàn. Ông ấy dường như là điên cuồng, dữ tợn."
Lin Chi nói: "Chúng ta giúp lẫn nhau đó thôi. Đó là một mưu đồ. Bây giờ
ông ở đây và đừng bao giờ lại hỏi về cách là vị Phật, bởi vì ông đã là phật rồi.
Người ta chỉ phải sống. Ông sống như vị Phật. Ông không bận tâm, không cố trở
thành người ta." Và anh ta đã trở nên chứng ngộ.
Đây là giáo huấn vĩ đại nhất có
thể có: bạn sống từ nó ra - bạn không cần bận tâm tới việc trở thành, bạn đã hiện
hữu rồi. Và Phật tính là việc hiện hữu, nó không bao giờ là việc trở thành. Bạn
không bao giờ có thể trở thành. Làm sao bạn có thể trở thành vị Phật? Hoặc bạn
hiện hữu, hoặc bạn không hiện hữu. Làm sao bạn có thể trở thành? Làm sao hòn đá
bình thường có thể trở thành kim cương được? Hoặc nó hiện hữu hoặc nó không hiện
hữu; trở thành là không thể được. Cho nên bạn quyết định: hoặc bạn hiện hữu, hoặc
bạn không hiện hữu. Nếu bạn không hiện hữu, quên mọi thứ về nó đi. Nếu bạn hiện
hữu, không có nhu cầu nghĩ về nó. Trong cả hai cách bạn đơn giản là bất kì cái
gì bạn đang là, và trong chính việc hiện hữu đó mọi thứ được bắt giữ - bạn có
thể bắt giữ cái trống rỗng mà không có nỗ lực nào.
"Điều đó không thật tốt
đâu," Sekkyo nói,
"ông không thu được cái gì
ở đó."
"Vậy, thưa thầy," sư
này nói,
"Xin chỉ cho tôi cách tốt
hơn."
Không có cách nào tốt hơn hay tồi
hơn. Cách thức không tồn tại, bởi vì cách thức nghĩa là cái gì đó phải trở
thành. Cách thức nghĩa là khoảnh cách nào đó phải được du hành qua. Cách thức
nghĩa là bạn và mục đích là phân tách. Cách thức là có thể nếu tôi du hành tới
bạn, cách thức là có thể nếu bạn du hành tới tôi, nhưng nếu tôi cố là bản thân
mình thì cách thức có thể là thế nào? Không có khoảng cách.
Nếu bạn thử đạt tới bản thân bạn,
cách thức là không thể được. Không có không gian, không có khoảng cách. Bạn đã
là bản thân mình rồi, cách thức không tồn tại. Đó là lí do tại sao Thiền được gọi
là đường vô lộ, cổng vô môn. Cổng không có đó, và đây là cổng. Đường vô lộ - đường
không tồn tại, và hiểu điều này, là đường. Nỗ lực Thiền là để ném bạn vào thực
tại của bạn ngay lập tức. Không cần trì hoãn.
"Vậy, thưa thầy," sư
này nói,
"Xin chỉ cho tôi cách tốt
hơn."
Anh ta vẫn đang trong cùng cái
bẫy. Bản ngã đang hỏi: thế thì cái gì đó khác là có thể chăng; có thể cái gì đó
có thể được làm và bạn có thể bắt giữ cái trống rỗng.
Vừa lúc đó, Sekkyo tóm lấy mũi
của sư này
Và véo mạnh.
Sao Thiền sư thô lỗ thế? Và chỉ
Thiền sư mới thô lỗ thế. Họ có từ bi thực, và bạn có thể bị ném vào bản thân
mình chỉ theo cách như vậy, không có cách khác. Bạn cần điều trị gây choáng. Tại
sao điều trị gây choáng? Bởi vì chỉ trong choáng, trong một phần thời gian nhỏ,
việc suy nghĩ của bạn dừng lại, bằng không thì không. Chỉ trong choáng bạn mới
trở nên nhận biết, tỉnh táo, giấc ngủ của bạn bị bỏ lại. Bằng không bạn là người
mộng du. Chừng nào ai đó còn chưa đánh mạnh vào bạn, giấc ngủ của bạn không thể
bị phá vỡ.
Vừa lúc đó, Sekkyo tóm lấy mũi
của sư này
Và véo mạnh.
"Ái!" Sư này la lên.
"Thầy làm đau tôi!"
Trong cái 'Ái!' này là toàn thể
bí ẩn. Ai đó véo mũi bạn - điều gì xảy ra bên trong? Điều đầu tiên là ở chỗ nó
chưa bao giờ được mong đợi. Tâm trí đã mong đợi câu trả lời trí tuệ nào đó. Điều
này là khá toàn bộ. Anh ta đang hỏi lí thuyết nào đó, học thuyết nào đó, phương
pháp nào đó, kĩ thuật: anh ta muốn việc trao đổi từ đầu qua đầu. Điều này là
khá toàn bộ. Thầy hoàn toàn nhảy lên anh ta, hệt như mèo nhảy lên chuột. Một việc
toàn bộ. Toàn thể con mèo nhảy, không phải cái đầu; và toàn thể con chuột bị bắt,
không phải cái đầu. Đây là điều toàn bộ, bất ngờ. Điều bất ngờ là chìa khoá, bởi
vì nếu tâm trí có thể mong đợi, sẽ không có choáng. Nếu tâm trí không thể mong
đợi, thế thì tâm trí đã chết. Cho nên nếu bạn đi tới Sekkyo, nhớ cho rõ - ông ấy
sẽ không làm cùng điều đó với bạn đâu, bởi vì bạn có thể mong đợi điều đó bây
giờ. Ông ấy sẽ làm cái gì đó tuyệt đối bất ngờ.
Bởi vì các Thiền sư đánh, ném mọi
người qua cửa sổ, nhảy lên họ, làm bất kì cái gì, điều thỉnh thoảng đã xảy ra
trong lịch sử của Thiền là mọi người sẽ tới hoàn toàn sẵn sàng. Các chiều hướng
là giới hạn. Bạn có thể làm được gì? Bạn có thể đánh, bạn có thể ném, bạn có thể
nhảy lên người đó. Chỉ vài phương án có đó. Cho nên mọi người sẽ tới hoàn toàn
sẵn sàng. Nhưng bạn không thể lừa được thầy - thầy sẽ không làm gì cả; thầy sẽ
ngồi im lặng - và điều đó sẽ là bất ngờ.
Bất ngờ là chìa khoá, bởi vì
trong khoản khắc bất ngờ tâm trí không thể vận hành được. Đó là điều cái
"Ái!' ngụ ý. Tâm trí đã đơn giản dừng lại. Tiếng nói này không tới từ tâm
trí, nó tới từ tính toàn bộ của bạn. Nó không bị bản ngã thao túng, bởi vì
không có thời gian cho bản ngã thao túng, nó đã xảy ra bất thần thế, thầy đã nhảy
lên bạn bất thần thế, không có thời gian để chuẩn bị, để sẵn sàng, để làm cái
gì đó. Cái 'Ái!' này tới từ toàn thể thân thể, tâm trí, linh hồn của bạn; từ
chính chiều sâu của cái trống rỗng của bạn nó tới, nó có hương vị của cái toàn
bộ.
Và không có người thao túng,
không có ai đã làm nó - nó đã xảy ra. Và khi cái gì đó xảy ra và người làm
không có, đó là cách bạn bắt giữ cái trống rỗng. Đây là trống rỗng. Cái 'Ái!'
này tới từ trống rỗng bên trong. Không ai là người làm của nó. Đệ tử này đã
không làm nó: nó đã đơn giản xảy ra. Và trong việc xảy ra đó, trong cái 'Ái!'
đó tâm trí không vận hành. Nó đã đi qua tâm trí, nhưng nó đã không tới từ tâm
trí. Và nó đã đi qua tâm trí với tốc độ nhanh thế, thực ra, nếu bạn thực sự bị
đau ở mũi, bị véo, cái 'Ái!' đã xảy ra đó phá vỡ rào chắn âm thanh. Bạn đi và hỏi
các nhà sinh lí mà xem: nó đi nhanh hơn âm thanh. Nó có năng lượng toàn bộ
trong nó và nó là đẹp, bởi vì anh ta có thể đã hoàn toàn quên mất tính tự phát
của bản thể. Anh ta bị ném trở lại với tính tự phát của mình. Anh ta bị ném từ
tâm trí sâu hơn vào trong điện thờ bên trong nhất của anh ta: từ đó cái 'Ái!'
này tới. Bất ngờ, không làm nó, nó xảy ra. Nó xảy ra từ cái trống rỗng, bạn đã
bắt giữ.
"Ái!" Sư này la lên.
"Thầy làm đau tôi!"
Và ngay lập tức tiếng vọng quay
lại: Thầy làm đau tôi. Nó kéo dài chỉ một khoảnh khắc, thậm chí không đến một
khoảnh khắc, một phần nhỏ xíu của nó, một thoáng nhìn, một tia sét, và ngay lập
tức tâm trí lại nắm quyền kiểm soát: Thầy làm đau tôi.
Nhìn vào ba từ này - thầy, làm
đau, tôi. Đây là cái toàn thể của cuộc sống: thầy và tôi và cái đau. Ngay lập tức
toàn thể tâm trí quay lại, với mọi yếu tố cơ sở; thầy, tôi và cái đau.
"Đó là cách nắm giữ cái trống
rỗng đấy,
Sekkyo nói.
Thầy đã làm lộ nó ra. Thầy đã
không giải thích, thầy đã cho nó. Thầy đã không chỉ ra, thầy đã tạo ra tình huống
trong đó nó xảy ra. Đó là điều thầy hiện hữu để làm gì: để tạo ra tình huống
trong đó mọi sự xảy ra cho bạn, để tạo ra tình huống trong đó bạn có thể trở
nên nhận biết về tính máy móc của tâm trí, và của tính tự phát của cái vô ngã
bên trong của bạn. Và thế thì bạn có thể đi, dần dần, từ tâm trí tới tính tự
phát bên trong. Bạn có thể trở nên chùng lỏng và tự nhiên. Bạn phải hiểu rằng mọi
thứ có thể diễn ra mà không có tâm trí của bạn cố thao tác mọi thứ, thực ra diễn
ra rất hay. Rắc rối bắt đầu khi bạn bắt giữ, khi bạn cố thao túng, khi bạn muốn
tâm trí nắm quyền - thế thì rắc rối bắt đầu. Bằng không mọi thứ cứ diễn ra, và
cứ diễn ra đẹp thế. Không cần cải tiến nó, và bạn không thể cải tiến được nó.
Thầy cho anh ta một thoáng nhìn
về bản thể bên trong của anh ta, bởi vì cái 'Ái!' tới từ chính trung tâm. Nó
không là của thân thể, không của tâm trí. Nó là của cái toàn bộ, và trong khoảnh
khắc đó anh ta vận hành như sự hiện hữu tự phát, không như người làm.
Việc vận hành này có thể trở
thành toàn thể cuộc sống của bạn - đó là điều tôn giáo nên là vậy. Cuộc sống
tôn giáo là vận hành của hiện hữu tự phát. Có những tình huống ở mọi khoảnh khắc.
Bạn hành động, nhưng không như người làm, bạn hành động một cách tự phát. Ai đó
mỉm cười, vậy bạn làm gì? Bạn có thể mỉm cười như người làm, bạn có thể thao
túng; bạn có thể mỉm cười bởi vì nếu bạn không mỉm cười điều đó là bất lịch sự;
bạn có thể mỉm cười, bởi vì trong xã hội bạn phải tồn tại và người này là rất
quan trọng. Thực ra, điều tự hào lớn là ông ta mỉm cười với bạn, cho nên bạn phải
mỉm cười lại. Nó có thể là mặc cả, chuyện kinh doanh, thương mại, xã giao xã hội,
hay nó có thể đơn giản là thói quen vô ý thức. Ai đó mỉm cười - bạn phản ứng, bạn
mỉm cười. Nụ cười nhấn nút, con người bạn tuyệt đối không bị ảnh hưởng. Thực
ra, bạn không ở trong nụ cười của bạn chút nào. Nó chỉ ở trên môi, một thứ tô vẽ:
chỉ là bài tập của môi, không có gì trong nó, tuyệt đối trống rỗng. Bạn thao
túng.
Có lần chuyện xảy ra tôi ở
trong một nhà và người chủ ngôi nhà chết. Ông ấy không có vợ, cho nên em gái
ông ấy tới giúp thu xếp mọi việc. Và tôi ở đó và đơn giản quan sát điều đã xảy
ra. Bất kì khi nào ai đó tới cô em đều nhìn ra ngoài cửa và lập tức bắt đầu kêu
khóc và nói mọi điều về người chết: rằng ông ấy đẹp thế và ông ấy đã qua đời và
cả đời cô ấy bây giờ buồn bã, ánh sáng đã biến mất - và mọi thứ! Và cô ấy sẽ
làm điều đó một cách máy móc thế; ngay lập tức nói cái gì đó nếu ai đó tới. Cô ấy
thực ra bảo tôi: Ông ngồi ra ngoài nữa đi ở trong vườn ấy. Nếu ai đó tới đơn giản
gõ cửa báo cho tôi.
Và khi người đó đã đi, cô ấy
hoàn toàn thoải mái. Nước mắt chảy dài trên má cô ấy khi cô ấy kêu khóc, nhưng
ngay khi người đó ra khỏi nhà, lưng người đó hướng vào nhà, nước mắt biến mất
và cô ấy hoàn toàn thoải mái, nói và tán chuyện và làm mọi thứ. Tôi đơn giản ngạc
nhiên. Tôi hỏi: Làm sao cô làm được điều đó? Cô có thể là một nghệ sĩ hoàn hảo.
Cô đơn giản làm nó hoàn hảo tới mức ngay cả nước mắt chảy ra!
Thao túng. Bạn không chỉ thao
túng thân thể người khác, bạn đang thao túng thân thể riêng của bạn - và điều
này cứ diễn ra liên tục. Mọi tự phát bị mất; bạn trở thành robot. Đây là cách
cuộc sống trở thành xấu, què quặt; đây là cách địa ngục được tạo ra. Thế thì
yêu của bạn là giả, ghét của bạn là giả, nụ cười của bạn là giả, nước mắt của bạn
là giả. Và làm sao bạn giả định sống trong tính giả như vậy và nghĩ về phúc lạc;
sống trong tính giả như vậy và nghĩ về chân lí; sống trong tính giả như vậy và
nghĩ về giải thoát, moksha? Không có moksha cho hiện hữu giả. Tính giả nên bị vứt
bỏ. Tự phát đi, không có gì để mất và mọi thứ đều được.
Lúc ban đầu bạn thỉnh thoảng có
thể cảm thấy chút ít vụng về bởi vì bạn muốn mỉm cười, điều đó được cần như một
thói cầu kì xã hội nhưng nụ cười tự phát không có đó. Nhưng chỉ lúc ban đầu
thôi. Chẳng mấy chốc tính đích thực của bạn sẽ được những người khác cảm thấy nữa,
và chẳng mấy chốc tính đích thực của bạn sẽ bắt đầu trả giá cho bạn. Nó trả lại
nhiều tới mức khi nụ cười thực tới trên môi bạn, nó sẽ là toàn bộ như cái 'Ái!'
- toàn thể bản thể mỉm cười, toàn thể bản thể trở thành nụ cười. Khắp xung
quanh bạn nụ cười của bạn lan rộng như gợn sóng trong tâm thức. Mọi người ở gần
bạn sẽ cảm thấy sự thuần khiết, sự thuần khiết như mới tắm, và bạn sẽ cảm thấy
phúc lạc vô cùng xảy ra cho bạn.
Một hành động đơn giản của tính
tự phát đích thực, và ngay lập tức bạn được chuyển từ thế giới này sang thế giới
khác.
Yêu - hay ngay cả giận... tôi bảo
bạn rằng ngay cả những xúc động tích cực, là giả, đều xấu; và ngay cả những xúc
động tiêu cực, là đích thực, vẫn là đẹp. Ngay cả giận cũng đẹp khi toàn thể bản
thể bạn cảm thấy nó, khi mọi thớ thịt của con người bạn rung động với nó. Nhìn
một đứa trẻ nhỏ giận dữ - và thế thì bạn sẽ cảm thấy cái đẹp của nó. Toàn thể bản
thể nó đều trong điều đó. Toả sáng. Mặt nó đỏ. Đứa trẻ nhỏ thế trông mạnh mẽ tới
mức dường như nó có thể phá huỷ toàn thế giới! Và cái gì xảy ra cho đứa trẻ một
khi nó giận? Sau vài phút, vài giây, mọi thứ được thay đổi và nó hạnh phúc và
nhảy múa và chạy quanh nhà lần nữa. Sao điều này không xảy ra cho bạn? Bạn đi từ
cái giả này sang cái giả khác. Thực sự, giận không phải là hiện tượng kéo dài,
bởi chính bản chất của nó, nó là điều nhất thời. Nếu giận là thực, nó kéo dài
trong vài khoảnh khắc; và trong khi nó kéo dài, đích thực, nó là đẹp. Nó không
làm hại người nào. Điều thực, tự phát không thể làm hại bất kì ai. Chỉ cái giả
mới gây hại. Trong người có thể giận một cách tự phát, sóng triều lan đi sau
vài giây và người đó thảnh thơi hoàn toàn với chính cực đoan kia. Người đó trở
thành đáng yêu vô hạn. Ngược lại, nó tạo ra nó lặp đi lặp lại, làm mới nó.
Nếu vợ và chồng chưa bao giờ trở
nên giận, bạn có thể chắc chắn không tồn tại tình yêu giữa họ. Điều đó là tuyệt
đối chắc chắn. Nhưng nếu thỉnh thoảng họ giận, thực sự giận, giận đó làm tỉnh
táo mọi thứ. Thực ra, sau khi giận qua rồi họ sẽ lại có tuần trăng mật mới. Bây
giờ mọi thứ là tươi mới, cơn bão đã qua, nó đã lau sạch mọi thứ. Lần nữa họ là
mới. Họ đã đi xa, bây giờ họ lại rơi vào trong tình yêu lần nữa. Rơi vào trong
tình yêu lặp đi lặp lại là tính vĩnh hằng của tình yêu. Nếu không có giận, giận
thực, nếu bạn đang sôi lên bên trong và cứ đi với nụ cười trên mặt bởi vì bạn
là chồng và cô ấy là vợ và giận sẽ tạo ra rắc rối - nếu bây giờ bạn mỉm cười, nụ
cười đó là giả. Và vợ biết rằng nụ cười của bạn là giả; và bạn cũng biết rằng nụ
cười của cô ấy là giả. Trong nhà bạn sống cuộc sống giả. Và cái giả này trở nên
được ăn sâu tới mức bạn đã hoàn toàn mất hút dấu vết của nụ cười thực là gì, nụ
hôn thực là gì, ôm ghì thực là gì, bạn đã hoàn toàn quên mất dấu vết. Thế thì bạn
làm qua những cử động - bạn ôm vợ, bạn hôn cô ấy, và bạn nghĩ về các thứ khác.
Bạn làm qua những cử động nhưng chúng là cử chỉ, bất lực, chết. Làm sao cuộc sống
của bạn có thể là sự hoàn thành được?
Và tôi bảo bạn rằng ngay cả những
xúc động tiêu cực cũng là tốt, nếu thực; và nếu chúng là thực, dần dần, chính
thực tại của chúng biến đổi chúng. Chúng trở nên ngày một tích cực hơn và một
khoảnh khắc tới khi mọi cái tích cực và tiêu cực biến mất. Bạn đơn giản vẫn còn
đích thực: bạn không biết cái gì là tốt và cái gì là xấu, bạn không biết cái gì
là tích cực và cái gì là tiêu cực. Bạn đơn giản đích thực.
Tính đích thực này sẽ cho phép
bạn có thoáng nhìn vào cái thực. Chỉ cái thực mới có thể biết cái thực, cái
đúng mới có thể biết chân lí, cái đích thực có thể biết cái đích thực đang bao
quanh bạn
Đó là cách để nắm giữ cái trống
rỗng.
Thầy tạo ra tình huống, cho
phép đệ tử đi vào trong hành động tự phát, dù nhỏ tới đâu - chỉ 'Ái!' và ánh
sáng xảy ra. Đây có thể trở thành một tỏ ngộ satori, chứng ngộ đầu tiên.
Cho nên nhớ vài điều: bạn phải
chuyển từ máy móc sang tự phát; từ trí tuệ, lời nói sang vô trí tuệ, vô lời; từ
bộ phận sang toàn thể; từ giả sang thực; và từ bản ngã sang vô ngã - từ cái ta
sang cái vô ta. Cái Cái vô ta đã tồn tại bên cạnh bản thân bạn rồi. Chỉ thay đổi
chú ý, đổi số là được cần. Không máy móc tồn tại bên cạnh máy móc, cái thực bao
giờ cũng chờ đợi bên cạnh cái giả - chỉ đổi động thái, chỉ nhìn vào tính tự
phát là được cần. Thử nó trong hai mươi bốn giờ đi. Bất kì khi nào bạn có cơ hội
đi từ cái giả tới cái thực, từ máy móc tới đích thực, lập tức đổi số đi. Và vẫn
còn nổi dường như bạn trống rỗng, không cố kiểm soát bản thân bạn quá nhiều. Vẫn
còn chùng lỏng và tự nhiên.
0 Đánh giá