Read more
Con Đường Của Yêu – Osho
Chương 3. Và nhà là không xa
Không có gì ngoài nước
tại chỗ tắm linh thiêng;
và ta biết rằng chúng là vô dụng,
vì ta đã tắm trong chúng.
Hình ảnh toàn không sống, chúng không thể nói;
ta biết, vì ta đã khóc to với chúng.
Purana và Koran đơn thuần là lời;
nâng màn lên, ta đã thấy.
Kabir thốt ra lời của kinh nghiệm;
và ông ấy biết rõ rằng mọi thứ khác là không thực.
Ta cười khi ta nghe thấy
rằng cá trong nước khát:
ông không thấy rằng cái thực là trong nhà ông,
và ông lang thang từ rừng nọ sang rừng kia
bơ phờ! Đây là chân lí!
Đi nơi ông sẽ đi, tới Banaras hay tới Mathura;
Nếu ông không tìm thấy hồn của ông,
thế giới là không thực với ông.
Cuộc truy tìm chân lí
của con người là vĩnh hằng. Nó là cuộc hành hương lâu dài không có bất kì bắt đầu
nào. Mặc dầu nó đi tới kết thúc, nó không có bắt đầu. Chúng ta đã từng tìm và
tìm và tìm; việc tìm của chúng ta có sự liên tục qua nhiều thế kỉ, đôi khi
trong hình tướng này, đôi khi trong hình tướng khác. Ngay cả những người dường
như tìm chân lí có ý thức, họ nữa cũng đang tìm kiếm. Chính hiện hữu của con
người là việc tìm chân lí.
Đó là đau đớn của con
người - và vinh quang nữa. Không con vật nào đi tìm kiếm, mọi con vật khác đều
bằng lòng như chúng vậy. Chó là chó, và nó không cố trở thành bất kì cái gì
khác. Không có việc trở thành. Chó được thoả mãn hoàn hảo; nó thoải mái. Không
có hành hương, nó không đi bất kì đâu, không có tương lai. Và do vậy đó là hoàn
cảnh với mọi con vật khác.
Con người là con vật
kì lạ, rất lạ, và tính lạ là ở chỗ con người không bao giờ được thoả mãn; bất
mãn là chính hồn của con người. Con người di chuyển; con người là động, con người
không tĩnh tại. Con người là luồng chảy, dòng sông tìm đại dương - lúc thì có
chủ tâm, lúc thì không chủ tâm thế, nhưng việc tìm kiếm tiếp tục; con người
không thể khác được.
Friedrich Nietzsche
đã nói rằng con người là chiếc dây thừng căng giữa hai thực thể: tính vĩnh hằng
của tự nhiên và tính vĩnh hằng của Thượng đế. Con người là chiếc cầu. Bạn không
thể nghỉ khi bạn là con người, bạn phải đi. Bạn có thể nghỉ một chốc, nhưng việc
nghỉ không thể trở thành cuộc sống của bạn; bạn phải đi - vì con người không hiện
hữu, con người là quá trình.
Chó có hiện hữu, và
đá có hiện hữu, nhưng con người còn chưa hiện hữu; hiện hữu phải tới, hiện hữu
phải nở hoa, hiện hữu phải được đạt tới. Con người rất nghịch lí: con người là
vậy, và vậy mà con người không là vậy. Điều đó là căng thẳng, phiền não, lo âu:
làm sao hiện hữu?
Vực thẳm thường xuyên
bao quanh nhân loại, và con người bao giờ cũng đối diện với vực thẳm không đáy
và bao giờ cũng sợ không hiện hữu, vì con người chưa hiện hữu. Con người là sự
hứa hẹn: con người có thể hiện hữu, nhưng con người chưa hiện hữu - cho nên có
hi vọng và có sợ hãi, có khả năng và có e sợ. Nó có thể xảy ra, nó có thể không
xảy ra, cho nên con người không bao giờ trong sự chắc chắn.
Toàn thể việc tìm
chân lí này có thể được chia thành bốn giai đoạn. Và tôi muốn bạn cân nhắc về bốn
giai đoạn này vì bạn sẽ ở đâu đó trong bốn giai đoạn này - hoặc trong giai đoạn
nào đó, hoặc đang chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác.
Giai đoạn thứ nhất
tôi gọi là 'rừng rậm'; giai đoạn thứ hai tôi gọi là 'rừng'; giai đoạn thứ ba
tôi gọi là 'vườn'; giai đoạn thứ tư tôi gọi là 'nhà'.
'Rừng rậm' - đó là trạng
thái ngủ say; con người không tìm kiếm có ý thức. Đa số mọi người sống trong trạng
thái này. Việc tìm kiếm có đó, nhưng rất vô ý thức, chưa có chủ định tìm; dò dẫm
trong bóng tối, nhưng không nhận biết đích xác về cái gì, hay thậm chí không nhận
biết rằng người ta đang dò dẫm; rất ngẫu nhiên. Lúc thì người ta có thể bắt gặp
một cửa sổ và có thể có linh ảnh, nhưng rồi điều đó bị bỏ lỡ. Vì người ta không
tìm kiếm có ý thức, người ta không thể giữ được các linh ảnh này. Lúc thì trong
mơ cái gì đó bừng lên trên bạn. Lúc thì trong yêu của bạn một cánh cửa mở ra và
đóng lại, nhưng bạn không biết làm sao nó mở ra và làm sao nó lại đóng lại. Lúc
thì nhìn vào mặt trời lặn đẹp, cái gì đó cực kì đẹp bao quanh bạn: thế giới
khác đã xuyên vào bạn - hay ít nhất đã chạm vào bạn, và thế rồi nó mất đi. Và bạn
thậm chí không thể tin cậy được rằng nó đã có đó, bạn thậm chí không thể tin được
rằng nó đã xảy ra... vì bạn đã không tìm kiếm có ý thức. Nhiều lần bạn bắt gặp
Thượng đế; nhắc bạn, nhiều lần bạn bắt gặp Thượng đế, bạn gặp Ngài ở nhiều điểm
của cuộc sống của bạn, nhưng bạn không thể nhận ra Ngài - vì ngay chỗ đầu tiên
bạn không đi tìm Ngài.
Và nhớ, chừng nào bạn
chưa tìm một thứ, bạn không thể thấy được nó. Bạn có thể thấy nó chỉ khi bạn đi
tìm nó. Nó có thể đi qua bên cạnh bạn, nhưng nếu bạn không tìm nó bạn sẽ không
thấy nó. Để thấy cái gì đó người ta phải tìm nó.
Trạng thái thứ nhất
giống như rừng rậm: sâu, tối, dầy đặc, nguyên sơ, nguyên thuỷ. Không con đường
nào tồn tại, thậm chí không lối chân, và con người không đi bất kì chỗ nào,
liên tục loạng choạng từ góc tối này sang góc tối khác. Đa số nhân loại yêu
thích rừng rậm, trong trạng thái vô ý thức của tâm trí. Mọi người đang ngủ: họ
là người ngủ bước đi, họ là người mộng du.
Đó là giáo huấn của
Phật, Christ, Gurdjieff, Kabir: đa số mọi người không sống, chỉ tồn tại, sống
thực vật. Bạn dường như là tỉnh táo; bạn không vậy. Bạn sống trong làn sương dầy,
bị che mù. Cuộc sống của bạn là máy móc. Vâng, mọi sự xảy ra, nhưng chúng xảy
ra chỉ như mọi sự xảy ra cho máy móc: bạn nhấn nút và đèn bật sáng, chỉ giống
điều đó; bạn nhấn nút và cái máy bắt đầu vận hành, hệt như điều đó. Ai đó nhấn
nút trong bạn và giận tới; ai đó nhấn nút khác trong bạn và bạn rất hạnh phúc;
ai đó khác nhấn nút khác nào đó và tâm trạng khác nào đó bao quanh bạn - và thậm
chí không có kẽ hở một khoảnh khắc giữa việc nhấn nút và tâm trạng nảy sinh. Điều
đó là máy móc. Bạn không là người chủ, bạn là nô lệ.
Gurdjieff thường nói
rằng con người giống như chiếc xe ngựa: người lái xe thì say, người chủ đang ngủ
say trong xe, ngựa bất kham và bất kì chỗ nào chúng muốn là chúng đi, và bốn ngựa
đang đi theo bốn hướng. Bất kì khách qua đường nào cũng có thể nhảy lên xe, bắt
giữ chiếc xe, đưa xe đi; người lái xe đang say và người chủ xe ngủ say.
Và đây là trạng thái
của cuộc sống của bạn: cốt lõi bên trong nhất của bạn đang ngủ say, và nhận biết
của bạn đang say. Thân thể bạn là chiếc xe, và bất kì ý chợt nảy ra nào, bất kì
ham muốn nào đi vào bạn, dẫn bạn đi cho thời gian hiện tại, đem bạn tới chỗ nào
đó, bỏ bạn ở đó, và thế rồi ý chợt nảy ra khác, ham muốn khác... Và theo cách
này bạn đi chữ chi, loạng choạng trong đá này, loạng choạng trong cây kia.
Trong tối, bạn liên tục làm bản thân bạn bị đau, làm bản thân bạn bị thương. Cả
đời bạn không là gì ngoài ác mộng sâu.
Cố hiểu các đặc trưng
khác của trạng thái này. Thứ nhất, nó tương ứng với điều Carl Gustav Jung gọi
là 'vô thức tập thể', và cũng là điều Sigmund Freud gọi là 'vô thức'. Nó là trạng
thái tâm thức thấp nhất. Trong trạng thái này không tìm kiếm nào là có thể. Vì
bạn không bao giờ giữ cuộc sống của bạn trong tay bạn, bạn vẫn còn phó mặc cho
ngẫu nhiên.
Có vài người đã tới
tôi mà không tìm kiếm, chỉ một cách ngẫu nhiên; một người bạn tới và họ nghĩ,
'Được, chúng ta hãy đi và xem cái gì có đó.' Họ đã nhìn vào cửa hành sách và họ
bắt gặp một trong các sách của tôi, và ảnh của tôi hấp dẫn họ; hay họ thích
tiêu đề cuốn sách, và họ trở nên tò mò, và họ đã tới đây. Nhưng việc tìm kiếm
này là rất, rất vô ý thức. Bạn không nghĩ, không suy ngẫm về cuộc sống của bạn,
về nó nên thế nào, nó nên là gì, nó nên đi đâu.
Và từng ham muốn, khi
nó chiếm quyền sở hữu bạn, trở thành người chủ của bạn. Khi bạn giận, giận trở
thành người chủ của bạn, chiếm hoàn toàn sở hữu bạn. Không phải là bạn giận; bạn
trở thành giận, và bạn sẽ làm cái gì đó trong giận mà rồi bạn sẽ hối hận. Và
đây là điều nực cười: cái 'tôi' khác sẽ hối hận vì hành động của cái 'tôi'
khác, ham muốn khác, trạng thái khác, tâm trạng khác. Bây giờ bạn sẽ khổ, và bạn
sẽ đi và bạn sẽ muốn hỏi xin tha thứ. Đây là ai đó khác; nó không phải là cùng
người. Những đôi mắt đỏ ngầu đó đâu rồi, bộ mặt bạo hành đó, việc sẵn sàng giết
hay bị giết đó? Chúng tất cả đã mất đi.
Có lần một người nhổ
vào Phật; anh ta đã rất giận. Anh ta phải đã vậy - bằng không rất khó nhổ vào
Phật, có vẻ gần như không thể được. Làm sao anh ta có thể làm điều đó được?
Nhưng anh ta phải đã rất giận, phát rồ. Phật chùi nó đi bằng khăn quàng và hỏi
người này, 'Ông còn cái gì thêm để nói với ta không?'
Người này bối rối,
anh ta không thể nói được một lời. Anh ta bỏ đi. Cả đêm anh ta không thể ngủ được;
đến sáng anh ta tới. Anh ta sụp xuống chân Phật và anh ta nói, 'Xin tha thứ cho
tôi. Điều đó đã là cực kì ngu xuẩn, tôi đã điên.'
Phật nói, 'Ông không
điên; đó là lí do tại sao ông có thể làm điều đó. Ông đã không điên - cho nên đừng
cảm thấy lo nghĩ. Ông đã tuyệt đối vô ý thức, cho nên ông không chịu trách nhiệm.
Cho nên đừng hối hận! Đó đã là người nào đó khác, người đã tới và nhổ vào ta,
ông là ai đó khác toàn bộ. Người kia đã trong cơn rồ dại, anh ta đã điên. Ông vẫn
là cùng một người, ông đang chạm chân ta. Không, không, ông là hai người khác
nhau thế, ta không thể làm kết nối được.'
Con người là đám đông
trong trạng thái 'rừng rậm'. Nhiều người sống trong bạn, không kết nối, phân mảnh.
Bạn không có hồn. Đó là lí do tại sao Gurdjieff hay nói một điều rất có nghĩa -
rằng con người được sinh ra không có hồn. Con người được sinh ra với nhiều cái
ngã, nhưng không với hồn. Khi mọi cái ngã này tan chảy thành một, tích hợp
thành một, và tất cả những cái ngã này được thay đổi về mặt hoá học và trở
thành sự thống nhất, thế thì bạn có hồn. Khi mọi cái ngã này rơi vào trong đại
dương, và sự phân tách của chúng đã biến mất, và cái một nảy sinh, thế thì bạn
có hồn. Mọi người không có hồn. Bởi việc sinh, bạn không có hồn - rất ý nghĩa,
rất có nghĩa. Người ta phải trở thành hồn, người ta phải tích hợp đám đông bên
trong này lại, những cái ngã đang đánh lẫn nhau.
Tại giai đoạn này,
giai đoạn của rừng rậm, mọi người quan tâm nhiều tới câu trả lời hơn việc hỏi.
Họ lập tức được thoả mãn với bất kì câu trả lời ngu xuẩn nào được trao cho họ.
Thực ra, họ chưa bao giờ hỏi câu hỏi. Ngay cả trước khi hỏi, họ đã nhận câu trả
lời. Đó là cách ai đó đã trở thành người Hindu và ai đó là người Mô ha mét giáo
và ai đó là người Ki tô giáo: trước khi bạn đã bao giờ hỏi câu hỏi, câu trả lời
đã được trao cho bạn, và bạn đã từng bám lấy câu trả lời. Bạn ngụ ý gì khi bạn
nói rằng 'Tôi là người Do Thái' - hay người Mô ha mét giáo hay người Hindu hay
người Jaina? Bạn ngụ ý gì? Bạn có hỏi câu hỏi, hay bạn chỉ vay mượn câu trả lời?
Không hỏi câu hỏi, bạn đã tin vào Christ, vào Phật, vào Krishna, vào Mohammed?
- đây là ngu xuẩn vô cùng. Làm sao bạn có thể có được câu trả lờ khi bạn thậm
chí đã không hỏi, bạn đã không truy hỏi?
Trong trạng thái rừng
rậm, mọi người tin vào các câu trả lời mà không hỏi. Việc hỏi là gian nan, việc
hỏi là khó khăn. Chỉ tin vào những câu trả lời vay mượn là thoải mái, thuận tiện.
Để hỏi người ta phải đau khổ, để hỏi người ra phải du hành, để hỏi người ta phải
đi vào bên trong bản thân người ta. Bạn chỉ lấy câu trả lời, chỉ vay mượn nó.
Tại giai đoạn này mọi
người là rất am hiểu: các bác học, các tu sĩ. Bản thân họ sống trong tói, rừng
thẳm, và họ liên tục chỉ dẫn người khác cũng hướng tới rừng rậm tối, đậm đặc
hơn. Trong trạng thái này, rừng rậm, mọi người rất trần tục, mặc dầu họ giả vờ
có tính tôn giáo. Họ giả vờ: họ đi nhà thờ, họ đi tới đền chùa, nhà thờ hồi
giáo, giáo đường Do Thái, nhưng tất cả đó là hình thức, họ không ngụ ý điều đó.
Họ nói đãi bôi với Thượng đế, nhưng họ không ngụ ý điều đó. Nó nhiều phần là biện
pháp an ninh hơn - có thể Thượng đế hiện hữu; đó là 'có thể' - nhiều tính hình
thức xã hội. Điều tốt là có vẻ có tính tôn giáo.
Tôn giáo chủ nhật là
rất tốt - nó cho bạn sự kính trọng. Những người này không phải là người tìm kiếm,
và những người này là rất chính thống - vì họ sợ. Họ biết rằng tri thức của họ
là giả, được vay mượn, rẻ, cho nên họ rất sợ. Nếu ai đó nói bất kì cái gì ngược
lại họ, họ lập tức nện người đó. Bạn đang tạo ra hoài nghi. Họ không muốn bất
kì hoài nghi nào, họ không muốn bất kì nghi ngờ nào, họ không muốn bất kì câu hỏi
nào. Họ muốn bám lấy những niềm tin thoải mái mà bố mẹ họ đã cho họ, hay xã hội,
hay nhà nước cho họ. Họ không muốn bị lung lay. Họ sống trong thế giới giả của
lời, ý thức hệ.
Đây là kiểu người bạn
gọi là 'thẳng thắn' - thẳng thừng, truyền thống, người tuân thủ. Người đó hướng
quá khứ; người đó không bao giờ nhìn tới tương lai, và người đó không bao giờ
nhìn vào hiện tại. Người đó hướng quá khứ: quá khứ là vàng, ngày thực đã qua rồi;
những ngày đó đã tồn tại khi Jesus đã bước đi trên trái đất, hay khi Phật đã bước
đi trên trái đất, hay khi Krishna đã thổi sáo. Thời đại vàng của người đó bao
giờ cũng trong quá khứ, nơi không tưởng của người đó bao giờ cũng trong quá khứ:
'Nó đã từng có; giờ chúng ta đã sa ngã khỏi nó.' Người đó tin vào trạng thái sa
ngã. Người đó nghĩ rằng bây giờ không có tương lai, và người đó không bao giờ
nhìn vào tương lai, và người đó bám lấy quá khứ. Người đó là người chết, và người
đó bám lấy các niềm tin chết, ý thức hệ chết. Tôn giáo của người đó không phải
là phong trào, tôn giáo của người đó không phải là sự năng động; tôn giáo của
người đó được hệ thống hoá, được tổ chức, chết. Tôn giáo của người đó là cái
xác.
Kiểu người này tin
vào tu sĩ, tin vào giám mục, tin vào giáo hoàng, tin vào shankaracharya. Người
này không bao giờ đi tìm kiếm ở bất kì chỗ nào khác.
Tôi đã nghe...
Cha xứ của một giáo
đoàn tí xíu ở Arkansas một đêm hấp tấp thắp đèn toàn thể kho báu của nhà thờ,
và cảnh sát địa phương lên đường bắt ông ta. Ông ta đã làm điều này. Khi tóm cổ
áo lôi thủ phạm trở lại một tuần sau, viên cảnh sát công bố một cách dứt khoát
'Đây là con cáo sâu mọt.' 'Tôi lấy làm tiếc phải nói nó đã làm lãng phí tiền của
chúng ta, nhưng tôi đã cho ông ta hít ma tuý trở lại để cho chúng ta có thể làm
cho ông ta thuyết giảng về điều đó.'
Bây giờ ngay cả kiểu
tu sĩ này sẽ có tác dụng - vì tôn giáo chỉ là thứ hình thức. Ngay cả kẻ cắp
cũng có thể bị buộc phải thuyết giảng. Không ai bận tâm về tu sĩ, con người của
ông ta, tâm thức của ông ta, không. Nhiều nhất, huấn luyện của ông ta là được cần:
rằng ông ta biết ông ta đang làm gì. Kiểu tâm trí này, tâm trí rừng rậm, là rất
có quan liêu nghi thức. Nghi thức là tôn giáo. Việc tụng mật chú mà tu sĩ đã
cho bạn là đủ. Bản thân tu sĩ đã không về tới nhà, và ông ta liên tục cho Mật
chú Guru; ông ta liên tục cho mọi người các mật chú của họ. Ông ta liên tục
phân phối chìa khoá và ông ta còn chưa mở cửa riêng của ông ta. Ông ta là người
dốt nát như mọi người ông ta lãnh đạo. Nhưng ông ta có một thứ: sự tín nhiệm tới
từ các thế kỉ quá khứ. Tu sĩ Hindu có thể nói rằng trong năm nghìn năm gia đình
ông ta đã là các tu sĩ; điều đó có giá trị tiếp thị, có vậy thôi. Ông ta có tín
nhiệm. Người Hindu có thể nói rằng Veda là kinh sách cổ nhất thế giới. Việc là
cổ của chúng được coi là rất có giá trị. Thực ra, sách càng cổ, nó nhất định là
càng chết hơn.
Tôn giáo là tươi tắn,
trẻ trung, như lá mới, hay như giọt sương sớm mai trên nhành cỏ. Tôn giáo được
sinh ra mọi khoảnh khắc; nó chẳng liên quan gì tới quá khứ. Người tôn giáo thực
sự đi vào tìm kiếm Phật nào đó vẫn đang sống động, hay Christ nào đó người vẫn
đang sống và thở, đi tìm một Mohammed mà với người đó Koran vẫn đang tới, với
người đó Koran vẫn đang giáng xuống.
Nhưng kiểu rừng rậm
này không bao giờ đi bất kì đâu. Người đó bám lấy tu sĩ, tôn giáo, nhà thờ
trong đó người đó ngẫu nhiên được sinh ra. Người đó vẫn còn ở đó, người đó sống
trong nó, người đó chết trong nó.
Tôi đã nghe...
Theo một tạp chí
Hollywood, một người yêu phim ảnh đã ở trong quá trình xây dựng gia đình đến lần
thứ bẩy hay thứ tám. Tu sĩ hành lễ, bị bối rối bởi mọi quảng cáo và vẻ đẹp huyền
ảo, lạc mất vị trí của mình trong sách nghi lễ.
Ngôi sao ngáp và thì
thào, 'Trang tám tư, ngu thế!'
Bây giờ cho dù cô ấy
biết - đã lấy chồng bẩy, tám lần, cô ấy biết trang nào. 'Trang tám tư, ngu thế!'
cô ta nói với tu sĩ. Tôn giáo nghi lễ này chỉ máy móc. Tu sĩ biết vì ông ta lặp
lại nó mọi ngày. Và bạn, dần dần, trở nên quen với điều đó vì bạn liên tục lặp lại
nó mọi ngày. Điều đó tuỳ thuộc vào việc lặp lại. Nó không phải là khải lộ, nó
không phải là sự quen thuộc của bạn; nó chẳng liên quan gì tới bạn, nó là tuyệt
đối không kết nối với bạn. Bạn được sinh ra cho nó, nó đã không được sinh ra
trong bạn. Nó vẫn còn bề ngoài.
Tôi đã nghe...
Một cô hầu già chết,
và hai người bạn của bà ấy đi đặt làm bia mộ.
'Các bà có chữ đề bia
mộ thích hợp không?' thợ khắc bia hỏi.
'Chúng tôi nghĩ:
"Được sinh ra đồng trinh, đã sống đồng trinh, chết đi đồng trinh " chắc
là hay rồi,' người đàn bà trả lời.
Người khắc bia mộ trả
lời, 'Sao không tiết kiệm tiền? Chỉ cần đặt: Được trả về chưa mở.'
Và đó là điều xảy ra
cho người sống trong trạng thái rừng rậm: người đó tới đây, nhưng chưa bao giờ
sống. Sống là nguy hiểm; người đó không thể đảm đương được điều đó. Cuộc sống
là cuộc phiêu lưu vào cái mới; người đó bám lấy cái cũ. Cuộc sống là không biết
và không thể biết, và người đó không muốn mạo hiểm tri thức của mình. Người đó
được trả về mà chưa mở. Người đó tới, người đó sống, người đó chết, nhưng thực
ra người đó chưa hề tới, và và người đó chưa hề sống, và người đó chưa hề chết.
Toàn thể sự tồn tại của người đó là giấc ngủ say. Người đó chưa đòi được là người.
Kiểu người này là điều
bạn gọi là 'ngu như lợn'. Người đó bao giờ cũng có cái nhìn 'thánh thiện hơn
ngươi' - rất đạo đức. Người đó nghĩ người đó rất đạo đức; người đó không biết
ABCD về đạo đức. Nhưng người đó bám lấy luật xã hội, người đó không bao giờ dám
thò ngón chân ra bên ngoài nó. Người đó giữ qui tắc. Không phải người đó là đạo
đức - vì người đó bám lấy xã hội vô đạo đức, làm sao người đó có thể là đạo đức?
Người đạo đức nhất định
là phi xã hội; người đạo đức không thể có tính xã hội - ít nhất cho tới giờ điều
đó đã là không thể. Chúng ta có thể hi vọng rằng một ngày nào đó, trong thế giới
tương lai, xã hội sẽ là đạo đức tới mức người đạo đức có thể không cần trở
thành phi xã hội. Nhưng điều đó đã không là vậy cho tới giờ: cho tới nay nó bao
giờ cũng là vậy rằng bất kì khi nào có người đạo đức, người đó là phi xã hội.
Một Jesus là phi xã hội;
Phật cũng vậy, Kabir cũng vậy. Tại sao người đạo đức thực là phi xã hội? - vì
xã hội là vô đạo đức. Nếu bạn điều chỉnh xã hội, bạn trở thành vô đạo đức. Làm
sao bạn có thể điều chỉnh xã hội, cái là vô đạo đức và vẫn còn là đạo đức? Và đạo
đức mà được thuyết giảng trong xã hội chỉ là trò bịp bợm; nó là hư huyễn, nó chỉ
là việc trình diễn, nó không là đạo đức thực. Nó giả vờ, và ẩn sâu đằng sau nó
toàn là cái vô đạo đức.
Người Ki tô giáo liên
tục thuyết giảng: Yêu kẻ thù của ông, và họ đã đánh nhau nhiều cuộc chiến tranh
hơn bất kì người nào khác, và họ đã giết nhiều người hơn bất kì người nào khác.
Toàn thể lịch sử của Ki tô giáo là đẫm máu. Chính từ 'Islam' ngụ ý hoà bình, và
người Mô ha mét giáo chưa bao giờ là hoà bình.
Dường như đơn giản
không thể tin được làm sao chúng ta đã chịu đựng được mọi điều này trên thế giới.
Làm sao chúng ta chịu đựng được, làm sao chúng ta không có khả năng nhìn vào
trong chúng! Nhà thờ đã là một trong những thảm hoạ; dầu vậy nó vẫn còn là người
bảo vệ. Nó liên tục làm các thông báo về con người phải làm gì. Nhưng mọi thứ
được đặt vào lời tới mức người sống trong rừng rậm bị lừa dối.
Chẳng hạn, bây giờ thế
giới đang trở nên quá đông đúc, và việc phá thai là đạo đức, và liên tục sinh
ra trẻ con là vô đạo đức - vì thế giới sẽ bị đông thêm nữa: sẽ có nhiều nạn đói
hơn, nhiều chiến tranh hơn, nhiều nghèo nàn hơn. Bạn sẽ là nguyên nhân của nó.
Nhưng giáo hoàng liên tục nói rằng không người Cơ đốc giáo nào được phép phá
thai; đó là tội lỗi. Cùng điều này là đúng về shankaracharya của người Hindu;
ông ta liên tục nói 'Không phá thai.'
Bây giờ liên tục tăng
dân số thế giới này sẽ là một trong những điều vô đạo đức nhất; thế giới này đã
quá đông đúc rồi. Và nếu bạn mang một đứa trẻ vào thế giới này, bạn không chỉ
đang làm cái gì đó sai với thế giới, bạn đang làm cái gì đó sai với con bạn nữa:
bạn sẽ ném nó vào trong thể giới rất khổ. Tương lai của nó sẽ là khổ. Nhưng ý
thức hệ cũ không bao giờ nhận biết về thực tại mới. Nó liên tục nói điều vô
nghĩa. Có thể những lời đó đã có nghĩa một ngày nào đó, nhưng chúng không còn
có nghĩa nữa.
Tôn giáo thực phải
thay đổi với thời gian. Và kiểu người này là quá ngu như lợn: người đó không
bao giờ thay đổi, người đó không sẵn sàng thay đổi. Người đó rất chống lại thay
đổi, người đó là phản cách mạng. Và kiểu người này là cuồng tín và phát xít;
người đó sẵn sàng là bạo hành vào bất kì lúc nào. Và mọi bạo hành của người đó
nảy sinh vì người đó không tự tin về bản thân mình, không tự tin về tôn giáo của
mình. Tôn giáo của người đó không phải là kinh nghiệm riêng của người đó; làm
sao người đó có thể tự tin được? Nếu bạn tranh cãi với người đó, người đó lập tức
đem kiếm vào trong luận cứ. Luận cứ của người đó là luận cứ của chiếc kiếm. Kiểu
người này là rất phi lí, nhưng người đó nói dường như người đó là rất hợp lí.
Chủ nghĩa duy lí của người đó không là gì ngoài việc hợp lí hoá, nó không phải
là lí trí thực.
Nhớ và quan sát: đâu
đó sâu bên trong hồn của bạn, bạn phải có rừng rậm này. Vài người có nó nhiều
hơn, vài người có ít hơn, nhưng khác biệt là về lượng, về mức độ. Nhưng rừng rậm
này là trong mọi người. Đây là vô thức của bạn, đêm tối bên trong của bạn. Và từ
đêm tối này nảy sinh nhiều bản năng, sự thôi thúc, ám ảnh, điên rồ, và chúng
chiếm quyền sở hữu bạn và tâm thức của bạn là rất mong manh. Vô thức của bạn
chiếm chín mươi chín phần trăm, và ý thức của bạn chỉ một phần trăm. Bạn không
thể tuỳ thuộc vào nó được. Quan sát nó và không hỗ trợ cho vô thức. Lấy hợp tác
của bạn ra, không hợp tác với nó. Khi bất kì cái gì xảy ra và vô thức của bạn bắt
đầu nắm quyền sở hữu tâm thức của bạn, trở nên có tính quan sát, trở nên tỉnh
táo.
Chẳng hạn, giận nảy
sinh: nó nảy sinh từ vô ý thức, khói tới từ vô ý thức; thế rồi nó lan toả tới ý
thức của bạn và thế rồi bạn bị say bởi nó. Thế thì bạn có thể làm cái gì đó bạn
sẽ không bao giờ làm trong ý thức của bạn. Đợi đã. Đây không phải là lúc nói một
lời hay làm bất kì cái gì. Đóng cửa lại, ngồi im lặng, quan sát giận này đang nảy
sinh, và bạn sẽ tìm ra chìa khoá. Nếu bạn quan sát giận này nảy sinh, bạn sẽ thấy:
dần dần giận đã giảm đi. Nó không thể còn lại mãi mãi; nó có khối lượng năng lượng
nào đó, tiềm năng nào đó. Khi nó cạn kiệt, nó quay lại; và khi nó quay lại và
tái lắng đọng bên trong bản thân bạn, bạn sẽ thấy thay đổi, thay đổi về chất
trong con người bạn. Bạn đã trở nên nhận biết nhiều hơn. Năng lượng mà đã đi để
trở thành giận và đã bị phí hoài và đã đi tới tính phá huỷ, đã được dùng bởi
tâm thức của bạn. Và bây giờ tâm thức cháy sáng hơn - từ cùng năng lượng.
Đây là phương pháp
bên trong về cách thay đổi chất độc thành nước cam lồ. Khi bạn cảm thấy rất lôi
cuốn dục... Tôi không chống lại dục, nhưng tối chống lại dâm dục. Và để tôi làm
phân biệt: khi bạn cảm thấy rất lôi cuốn dục và bị sở hữu bởi người này, đây
không phải là khoảnh khắc để làm bất kì cái gì. Đóng cửa lại, suy ngẫm về dâm dục
của bạn. Để nó dâng lên, để nó đi ra đêm tối bên trong bạn. Từ rừng rậm, để nó
lan toả - bạn quan sát, bạn đơn giản quan sát, bạn trở thành ngọn lửa nhận biết
bất động. Bạn sẽ sớm thấy nó đã lại lắng đọng, và ý thức của bạn đang cháy sáng
hơn bao giờ. Bạn đã hấp thu nó, nó đã trở thành nước cam lồ.
Tôi không chống lại dục;
khi bạn đang cảm thấy rất có tính cầu nguyện, rất yêu thương, đi vào trong dục
đi - không cái gì sai - nhưng đừng bao giờ bị sập bẫy bởi đam mê. Và thấy sự
khác biệt: khi bạn đang cảm thấy yêu thương, đó là phẩm chất khác toàn bộ. Khi
bạn cảm thấy hạnh phúc, mở hội, và bạn muốn chia sẻ năng lượng của bạn với ai
đó bạn yêu, đi làm tình. Nhưng đây không phải là khoảnh khắc của đam mêm, đây
là khoảnh khắc của hơi ấm vô cùng. Một khoảnh khắc của yêu, chia sẻ đi.
Bạn có quan sát điều
đó không? - mọi người gần như bao giờ cũng làm tình sau khi họ đánh nhau với
người đàn bà của họ hay với người đàn ông của họ. Điều đó trở thành nghi lễ. Đầu
tiên họ đánh nhau, họ trở nên giận, và thế rồi đột nhiên đam mê nảy sinh. Giận
nuôi dưỡng đam mê. Có những người sẽ không cảm thấy đam mê chừng nào họ chưa bị
đánh bởi người đàn bà của họ hay người đàn ông của họ.
Bạn phải đã nghe nói
về de Sade. Ông ta thường có mọi công cụ luôn đi cùng ông ta trong túi xách. Ai
biết chỗ nào ông ta sẽ tìm ra người đàn bà để yêu? Và công cụ của ông ta bao
các thứ đề hành hạ bản thân ông ta, hay để hành hạ người đàn bà. Nhưng không có
hành hạ, đam mê sẽ không nổi lên. Khi bạn bị quất roi, đột nhiên có ham mê.
Và có những người đàn
bà kể lại rằng một khi họ đã yêu de Sade, họ không thể yêu được bất kì người
nào khác - vì đầu tiên ông ta sẽ quất roi họ và làm cho thân thể họ nóng lên,
và họ sẽ trở nên giận, và họ sẽ la hét, và họ sẽ chạy quanh; ông ta sẽ quất roi
họ cho đam mê và thế rồi ông ta sẽ làm tình. Tất nhiên, đây là cách đi vào
trong rừng rậm.
Và ngay cực đoan kia
là Masoch: ông ta sẽ quất roi bản thân ông ta, ông ta sẽ ép buộc người đàn bà
quất roi ông ta.
Chỉ khi ông ta bị quất
roi - và ông ta sẽ la và ông ông ta sẽ hét và ông ta sẽ trở nên giận, và mặt
ông ta sẽ trở thành đỏ với rồ dại - thế thì ông ta sẽ có năng lực; bằng không
ông ta sẽ bất lực.
Trong một phạm vi nhỏ
hơn bạn cũng làm điều đó: các đôi đánh nhau, họ tranh cãi, họ chì chiết, họ tạo
ra giận, thế rồi họ làm tình và thế rồi họ đi ngủ.
Đây là đi vào trong rừng
rậm. Đây là dâm dục, không phải dục tự nhiên.
Dục tự nhiên nhiều
tính thiền hơn. Ít có hừng hực - nhiều ấm áp hơn nhưng ít hừng hực hơn. Đam mê
là hừng hực, trạng thái điên, không lành mạnh. Ấm áp là trạng thái của yêu. Nếu
bạn có thể làm tình, tỉnh táo đầy đủ, quá trình yêu của bạn sẽ giúp bạn hướng tới
trở nên mỗi lúc nhận biết hơn, mỗi lúc được định tâm hơn.
Từ rừng rậm, bạn phải
kéo bản thân bạn ra.
Trạng thái thứ hai là
'rừng'. Nó gần giống như rừng rậm với hơi khác biệt: rừng có vài con đường, đường
nhỏ - không phải siêu xa lộ, mà chỉ đường nhỏ. Rừng rậm thậm chí không có đường
nhỏ. Rừng rậm là rất nguyên thuỷ: trong rừng rậm con người còn chưa đi vào, nó
gần như chỉ dành cho con vật. Trong rừng, con người đã đi vào. Vài đường nhỏ có
đó, bạn có thể tìm ra đường.
Rừng giống như việc
mơ. Rừng rậm giống như ngủ, rừng giống như việc mơ. Nó giống như tiềm thức - mảnh
đất chạng vạng, không đêm không ngày, chỉ ở giữa. Mọi thứ vẫn còn mờ sương,
nhưng không tối. Bạn có thể thấy một chút, bạn có thể đi một chút, bạn có thể
có khối lượng nhận biết nào đó. Đây là mảnh đất của người mơ mộng hão huyền,
người hippie, cái gọi là người tìm kiếm tôn giáo, người nghiện ma tuý - cố gắng
tìm bất kì cách nào, bất kì phương tiện nào, lối tắt bằng cách nào đó để ra khỏi
rừng. Đây là trạng thái nơi việc tìm kiếm bắt đầu - theo một cách rất ngập ngừng,
nhưng ít nhất nó bắt đầu. Nó là tốt hơn rừng rậm.
Người hippie là tốt
hơn người nệ cổ, tốt hơn người thẳng thắn: ít nhất người đó tìm kiếm. Có thể
đôi khi người đó đi theo hướng sai. Tìm kiếm thiền, người đó trở thành người
nghiện ma tuý - vì ma tuý có thể cho sự tương tự nào đó, kinh nghiệm tương tự
nào đó - nhưng ít nhất người đó tìm, ít nhất người đó di chuyển. Người đó có thể
phạm sai sót nhưng người đó đang di chuyển. Người trong rừng rậm không di chuyển
chút nào; người đó có thể không phạm sai sót, nhưng người đó không di chuyển.
Và không di chuyển là
sai sót lớn nhất người ta có thể phạm phải. Di chuyển đi! Cuộc sống là thử và
sai; người ta phải học qua sai sót.
Nhiều con đường mở ra
trong giai đoạn thứ hai này - thực ra quá nhiều, và người ta trở nên bị hoang
mang. Nó rất hỗn độn. Rừng rậm là rất ổn định, mọi thứ là rõ ràng. Mặc dù nó tối,
niềm tin là rõ ràng: ai đó là người Hindu và ai đó là người Mô ha mét giáo và
ai đó là người Ki tô giáo và mọi sự là rõ ràng. Người Ki tô giáo đi tới linh mục
của mình, người Hindu đi tới tu sĩ của mình, người Mô ha mét giáo đi tới tu sĩ
của người đó. Họ có Kinh Thánh của họ, Koran của họ, Veda của họ, mọi thứ là rõ
ràng. Trời tối nhưng mọi sự là rõ ràng, mọi người không bị hoang mang. Mọi người
là chết, nhưng không hoang mang. Với cuộc sống, hoang mang nảy sinh, và hỗn độn.
Nhưng từ hỗn độn các sao được sinh ra.
Trong kiểu thứ hai
các nhà thơ, hoạ sĩ, nghệ sĩ, nhạc sĩ, vũ công tới. Họ là những người cách mạng.
Kiểu thứ nhất là chính thống, kiểu thứ hai là cách mạng. Kiểu thứ nhất là truyền
thống, kiểu thứ hai là không tưởng. Kiểu thứ nhất là hướng quá khứ, kiểu thứ
hai là hướng tương lai. Với kiểu thứ nhất thời đại vàng đã qua rồi, với kiểu thứ
hai nó phải tới. Người đó nhìn lên trước. Người đó giống như người tiến vào
giai đoạn mới: người đó nhìn lên trước trên trời. Người đó đứng trên mẩu đá, một
chân giơ ra trong vực thẳm. Nhưng người đó hạnh phúc thế; người đó không nhìn
xuống, người đó đang nhìn lên trời, nhìn những ngôi sao xa xăm. Người đó đầy mơ
mộng. Người đó gần với cái chết của mình, nhưng người đó đầy mơ. Điều đó là
nguy hiểm. Nhưng nếu bạn hỏi tôi chọn cái gì, tôi sẽ nói chọn kiểu thứ hai -là
người ngu, không bao giờ là bác học. Là người ngu và mạo hiểm là tốt hơn không
bao giờ mạo hiểm và vẫn còn được thoả mãn với tri thức vạy mượn, hư huyễn. Kiểu
thứ hai là người ngu. Với giai đoạn thứ hai tôi có một cái tên đặc biệt: Tôi gọi
nó là 'mảnh đất California'. Vâng, nó là California của hồn người, nơi siêu thị
lớn, siêu thị tâm linh tồn tại - mọi loại kĩ thuật và mọi loại hướng dẫn và bản
đồ.
Đây là khoảnh khắc
khi người ta bắt đầu nhìn. Người ta không được thoả mãn với nhà thờ mà người đó
được sinh vào; người đó bắt đầu di chuyển và thử các con đường xa lạ, con đường
kì lạ. Đây là khoảnh khắc khi người ta trở thành người học và đi tìm thầy giáo.
Dầu vậy việc tìm kiếm này đã không đi rất sâu, nhưng nó đã bắt đầu. Hạt mầm đã
đâm chồi. Người ta sẽ vẫn phải đi rất lâu. Người ta phải đu lâu, nhưng bây giờ
một khả năng tồn tại.
Kiểu thứ nhất là chết;
kiểu thứ hai là sống động quá nhiều, sống động nguy hiểm. Kiểu thứ nhất là tại
cực đoan này, kiểu thứ hai chuyển sang cực đoan kia. Trong kiểu thứ hai cũng có
không cân bằng; cân bằng sẽ tới trong giai đoạn thứ ba.
Kiểu thứ nhất bám lấy
chữ chết, và kiểu thứ hai không bám vào cái gì, không thuộc vào chỗ nào, liên tục
di chuyển, là kẻ lang thang. Kiểu thứ nhất là chủ hộ, kiểu thứ hai là kẻ lang
thang. Nhưng kiểu thứ hai giống như người nay đây mai đó: người đó không thu thập
rêu. Người đó không bao giờ đi tới trung tâm riêng của mình; người đó liên tục
chuyển từ thầy giáo này sang thầy giáo khác, từ sách này sang sách khác.
Kiểu thứ nhất đơn giản
tin vào sách của người đó, và kiểu thứ hai trở thành sẵn có cho mọi sách của thế
giới. Người đó đọc Kinh Thánh, và người đó Koran, và người đó đọc Gita - và trở
nên hoang mang, và trở thành kẻ thộn. Và người đó không thể hình dung ra được
cái gì là cái gì.
Kiểu thứ nhất rất giỏi
nói, kiểu thứ hai trở nên kém nói hơn. Bạn có nói chuyện với người hippie
không? - rất khó hình dung ra điều người đó nói. Và khi người đó không biết điều
người đó đang nói, người đó nói, 'Bạn biết không?' Người đó không biết bản thân
người đó, và người đó hỏi bạn, 'Bạn biết không? Bạn thấy không?' - và bản thân
người đó không thấy bất kì cái gì. Và thay vì diễn đạt bằng lời, người đó bắt đầu
diễn đạt trong âm thanh. Người đó bắt đầu dùng âm thanh, âm thanh trẻ mới sinh.
Người đó trở nên kém nói.
Kiểu thứ nhất rất hợp
lí hoa, sống trong đầu. Kiểu thứ hai di chuyển hướng tới tim, trở nên nhiều kiểu
cảm hơn. Kiểu thứ nhất không nhận biết, nhưng nghĩ rằng suy nghĩ của người đó
là nhận biết. Kiểu thứ hai vẫn chưa đạt tới nguồn của việc cảm, và nghĩ đa cảm,
đa tình là việc cảm.
Người hippie có thể
khóc, có thể cười; người đó là lập dị, gàn, nhưng tốt hơn kiểu thứ nhất. Kiểu
thứ nhất có tính chính trị, kiểu thứ hai là phi chính trị. Kiểu thứ nhất tin
vào chiến tranh, kiểu thứ hai bắt đầu tin cậy vào hoà bình. Kiểu thứ nhất tích
luỹ mọi thứ, kiểu thứ hai bắt đầu yêu con người... điều đó là hay. Kiểu thứ nhất
tin vào hôn nhân, kiểu thứ hai tin vào yêu. Kiểu thứ nhất sống trong cuộc sống
có che chở, kiểu thứ hai không biết người đó sẽ ở đâu ngày mai.
Nhưng tốt; mọi sự đã
bắt đầu chuyển động. Họ có thể đi theo hướng sai, đúng, nhưng họ có thể đi theo
hướng đúng nữa. Chuyển động là tốt. Bây giờ hướng đúng sẽ được cần tới. Một điều
đã xảy ra, giờ hướng sẽ được cần.
Kiểu thứ nhất là rất
trần tục, tin vào số dư ngân hàng và bảo hiểm nhân thọ; kiểu thứ nhất là rất
tham về quyền, tiền. Kiểu thứ hai không tin vào an ninh; người đó tin cậy vào
cuộc sống hơn bảo hiểm nhân thọ. Người đó tin vào yêu nhiều hơn vào an ninh bạn
có thể có trong số dư ngân hàng. Người đó không có tâm trí hướng tiền, người đó
không tích trữ. Người đó không đạo đức theo nghĩa mà kiểu thứ nhất là đạo đức,
nhưng người đó bắt đầu có một loại tính đạo đức mới - tính đạo đức cách mạng,
tính đạo đức cá nhân. Tính đạo đức của kiểu thứ nhất là tính xã hội, tính đạo đức
của kiểu thứ hai là tính cá nhân; tính đạo đức của kiểu thứ nhất phụ thuộc vào
ước định, tính đạo đức của kiểu thứ hai phụ thuộc vào lương tâm. Người đó nhìn
quanh, và bất kì cái gì người đó cảm thấy cần làm, người đó làm nó. Người đó
làm điều riêng của mình, người đó là cá nhân.
Kiểu thứ nhất có tính
tập thể. Vô thức có tính tập thể, tiềm thức có tính cá nhân. Bạn có quan sát
không? - khi bạn mơ, bạn mơ một mình. Bạn không thể chia sẻ nó với bất kì người
nào; nó có tính cá nhân, riêng từng người. Bạn thậm chí không thể mời người đàn
bà của bạn vào xem mơ của bạn. Cô ấy có thể ngủ ngay bên cạnh bạn trong cùng
giường, nhưng bạn mơ giấc mơ của bạn, cô ấy mơ giấc mơ của cô ấy - mọi người
làm việc riêng của mình. Đó là lí do tại sao tôi gọi trạng thái này là trạng
thái tiềm thức, trạng thái mơ.
Kiểu thứ nhất không
quan tâm tới các câu hỏi hay trong câu hỏi, người đó quan tâm tới câu trả lời.
Người Hindu có câu trả lời, câu trả lời Hindu; người Jaina có câu trả lời, câu
trả lời Jaina - vân vân và vân vân. Kiểu thứ hai vẫn không quan tâm tới câu hỏi,
nhưng người đó có quá nhiều câu trả lời. Kiểu thứ nhât chỉ có một câu trả lời,
kiểu thứ hai có nhiều câu trả lời. Dầu vậy câu hỏi đã không trở thành điều quan
trọng nhất, dầu vậy câu trả lời, nhưng bây giờ, là quá nhiều. Điều này là tốt,
đây là thảnh thơi. Kiểu thứ hai không thể là ngu như lợn. Người đó không thể phủ
nhận thẳng thừng và nói rằng Kinh Thánh là sai vì người đó là người Hindu. Người
đó không thể phủ nhận thẳng thừng rằng Gita phải là sai vì người đó là người Ki
tô giáo. Không, người đó trở thành nhiều tính người hơn, người đó trở thành nhiều
tính vũ trụ hơn. Người đó đã nhìn vào trong Gita và trong Kinh Thánh và người
đó đã thấy những thoáng nhìn về chân lí ở mọi nơi. Người đó có nhiều câu trả lời.
Kiểu thứ nhất có tính
giáo điều, lí thuyết; kiểu thứ hai có tính triết lí.
Và kiểu thứ ba là 'vườn'
- giai đoạn thứ ba.
Vườn là trạng thái thức
tỉnh: người ta thức tỉnh. Kiểu thứ nhất là ngủ; kiểu thứ hai là mơ; kiểu thứ ba
là thức. Người Hindu gọi kiểu thứ nhất là sushupti, kiểu thứ hai là swabhana,
kiểu thứ ba là jagrati. Bây giờ người đó có ý thức, nhận biết, ngày đã hừng
lên. Sách, người hướng dẫn, thầy giáo, đã trở thành không liên quan; người đó
đã tìm ra Thầy.
Kiểu thứ nhất tin vào
tu sĩ. Kiểu thứ hai không biết đâu mà đi: người đó không có la bàn, người đó đã
mất mọi hướng, người đó đi tới bất kì người nào. Bạn có thể huấn luyện con chó
và gọi nó là Guru Maharaji, và nó sẽ đi. Chỉ tuyên truyền, và bạn sẽ thấy rằng
con chó này đã tìm ra những kẻ đi theo. Kiểu thứ hai có thể đi tới bất kì Guru
Maharaji nào. Người đó thực sự sụp xuống chân của bất kì người nào, người đó là
quá sẵn sàng. Kiểu thứ nhất không bao giờ sẵn sàng, kiểu thứ hai quá sẵn sàng.
Với kiểu thứ nhất, không có vấn đề sụp xuống chân của bất kì người nào khác hơn
tu sĩ riêng của người đó. Với kiểu thứ hai, mọi người dường như là tu sĩ. Mắt
người đó rất lưỡng lự. Người đó có thể đi tới bất kì người nào, tới bất kì ai
tuyên bố, tới bất kì ai có thể hét to: 'Vâng, tôi sẽ là người hướng dẫn của bạn.
Tôi là thầy thế giới, tôi là thế này và thế nọ.' Bất kì người nào có thể tuyên
bố, người đó sẽ sẵn sàng sụp xuống dưới chân người đó.
Nhưng kiểu thứ ba
không còn quan tâm tới thầy giáo; người đó không là học sinh. Người đó quan tâm
tới tiếp xúc cá nhân - người đó quan tâm tới một Thầy, người đó muốn trở thành
đệ tử. Người đó không bận tâm về điều Thầy nói, người đí quan tâm nhiều hơn tới
rung động mà Thầy tạo ra xung quanh thầy. Người đó không quan tâm tới học thuyết
của thầy, tới triết lí của thầy; người đó quan tâm tới hiện hữu của thầy.
Khi bạn trở nên quan
tâm tới hiện hữu, và khi bạn nhìn thẳng vào cốt lõi bên trong nhất của người
ta; khi bạn bắt đầu cảm sự hiện diện, chỉ thế thì bạn có thể trở thành đệ tử. Bạn
không đi tìm bất kì câu trả lời triết lí nào; bây giờ câu hỏi đã trở thành quan
trọng: Tôi là ai? Kiểu thứ hai sẵn sàng học, kiểu thứ nhất không sẵn sàng học,
kiểu thứ ba sẵn sàng dỡ bỏ. Để tôi nhắc lại: kiểu thứ nhất không sẵn sàng học.
Người đó bướng bỉnh, người đó nghĩ người đó đã biết. Kiểu thứ hai sẵn sàng học
từ bất kì chỗ nào, và thế thì người đó học quá nhiều thứ - mâu thuẫn, ngu xuẩn,
tốt, xấu - và người đó trở bên bị rối trí.
Kiểu thứ ba sẵn sàng
dỡ bỏ. Người đó không tìm tri thức. Người đó nói, 'Tôi đang tìm người đã đạt tới.
Và tôi sẽ không nghe liệu điều người đó nói là đúng về lí lẽ, về triết lí
không. Tôi muốn có mối quan hệ thân thiết.'
Mối quan hệ giữa thầy
giáo và học sinh không có tính cá nhân. Mối quan hệ giữa Thầy và đệ tử có tính
cá nhân; nó là chuyện tình. Người ta phải cảm, người ta phải ở trong sự hiện diện
của Thầy, người ta phải quan sát. Người ta phải không mang tâm trí của mình
vào; người ta phải để tâm trí ra xa, và người ta phải nhìn thẳng, và cảm.
Một Thiền sư thường
nói, 'Khi ta tới Thầy của ta, trong ba năm ta đã ngồi bên cạnh thầy, và thầy thậm
chí không nhìn ta. Thế rồi sau ba năm thầy đã nhìn ta, và đó là niềm vui lớn
lao. Thế rồi lại ba năm trôi qua, và một hôm thầy đã cười với ta, mỉm cười, và
đó đã là phúc lành. Thế rồi ba năm lại trôi qua, và một hôm thầy vỗ đầu ta, điều
đó là vô cùng, điều đó là không thể tin được. Thế rồi ba năm lại trôi qua, và một
hôm thầy ôm ta, và ta biến mất và thầy biến mất... và đã có sự thống nhất.'
Tìm Thầy là tìm điểm
gần nhất từ đó Thượng đế là có sẵn, cánh cửa gần nhất nơi Thượng đế là sẵn có.
Ai đó đã tới... Nhưng làm sao bạn sẽ quyết định? Bạn sẽ phải cảm; nghĩ sẽ không
giúp được gì. Nghĩ sẽ dẫn sai đường bạn; bạn sẽ phải cảm, bạn sẽ phải kiên nhẫn,
bạn sẽ phải ở trong sự hiện diện của người đó, bạn sẽ phải nếm trải, bạn sẽ phải
trở nên say với sự hiện diện của người đó. Và dần dần, mọi sự sẽ trở nên rõ dàng.
Khi tâm trí bạn lui xuống, mọi sự sẽ trở nên rõ ràng. Hoặc người đó là Thầy hoặc
người đó không là Thầy - và điều đó sẽ là sự khải lộ. Nếu người đó là Thầy, thế
thì bạn có thể nhấn chìm bản thân bạn một cách toàn bộ. Nếu người đó không phải,
thế thì bạn phải đi. Theo cả hai cách, bạn sẽ đi tới kết luận. Đôi khi việc xảy
ra là bạn có thể cảm thấy người đó là Thầy, nhưng không dành cho bạn. Thế nữa bạn
cũng phải đi - vì Thầy chỉ có thể giúp đỡ nếu bạn và thầy khớp với nhau, nếu
các bạn được ngụ ý ở cùng nhau, nếu các bạn được ngụ ý dành cho nhau.
Cho nên đôi khi chuyện
xảy ra là có thể có Thầy lớn. Phật và Mahavir cả hai đã sống cùng nhau trong
cùng thời gian, họ là đương đại. Và các đệ tử sẽ tới Phật, và họ sẽ ngồi cùng
Phật trong nhiều năm. Thế rồi một hôm đột nhiên đệ tử này sẽ chuyển đi. Và cùng
điều đó sẽ xảy ra cho Mahavir: vài đệ tử sẽ tới ông ấy, sẽ ở cùng ông ấy, và một
hôm nào đó họ đi mất và sẽ bắt đầu theo Phật.
Bây giờ các Phật tử
và người Jains đã từng tranh cãi trong nhiều thế kỉ về tại sao điều đó đã xảy
ra. Người Jains sẽ nói rằng điều đó xảy ra vì Mahavir là Thầy thực, cho nên nhiều
người đã tới từ Phật; họ không bao giờ nói tới các đệ tử đã chuyển từ Mahavir
sang Phật. Và các Phật tử bao giờ cũng nói về những đệ tử từ Mahavir tới Phật,
và họ quên nói về các đệ tử đã chuyển từ Phật tới Mahavir.
Các đệ tử đã chuyển
đi, điều đó là đúng, và từ cả hai phía - và lí do không phải là Mahavir đã
không đúng hay Phật đã không đúng. Lí do là: đôi khi bạn khớp với Thầy, đôi khi
bạn không khớp. Đệ tử đã chuyển đi khỏi Phật đã chạm chân ông ấy, đã cám ơn ông
ấy - vì kinh nghiệm này nữa đã xảy ra trong sự hiện diện của ông ấy, rằng họ đã
không được ngụ ý cho nhau. Và họ đã biết ơn trong cả đời họ hướng tới Phật. Họ
đã chuyển sang Mahavir, họ đã đạt tới việc nhận ra của họ trong sự hiện diện của
Mahavir, nhưng họ đã biết ơn Phật nữa.
Ở giai đoạn này, vườn,
một cảnh quan khác toàn bộ mở ra. Đây là điểm mà câu hỏi 'Tôi là ai' trở thành
quan trọng, và bạn không hỏi vì câu trả lời. Bạn không sẵn sàng chấp nhận bất
kì câu trả lời nào từ bên ngoài. Và Thầy không định cho bạn bất kì câu trả lời
nào. Thực ra, thầy sẽ phá huỷ mọi câu trả lời của bạn - đó là điều tôi đang làm
ở đây.
Tôi đang phá huỷ mọi
câu trả lời của bạn; nếu bạn là người Hindu, tôi đập tan Hindu giáo; nếu bạn là
người Mô ha mét giáo, tôi đập tan Mô ha mét giáo; nếu bạn là người Ki tô giáo,
tôi đập tan Ki tô giáo. Đó là điều tôi đang làm: tôi lấy đi mọi câu trả lời của
bạn, để cho bạn bị bỏ lại một mình với câu hỏi của bạn, trước câu hỏi của bạn,
trong trắng với câu hỏi của bạn.
Khi câu hỏi của bạn bị
bỏ lại đó, và không có câu trả lời nào từ bên ngoài, bạn bắt đầu rơi vào bên
trong bản thân bạn. Câu hỏi này xuyên thấu như mũi tên tới chính cội nguồn con
người bạn - và đó là câu trả lời. Và câu trả lời đó không bằng lời nói. Nó
không phải là lí thuyết mà bạn bắt gặ, nó là việc nhận ra. Bạn bùng nổ. Bạn đơn
giản biết. Nó không phải là tri thức; bạn biết. Nó là kinh nghiệm, nó có tính tồn
tại.
Người thứ nhất có
tính giáo điều, giáo phái. Người thứ hai có tính triết lí. Người thứ ba có tính
tôn giáo, tồn tại.
Và thế rồi trạng thái
thứ tư là 'nhà'.
Người Hindu gọi nó là
turiya: trạng thái thứ tư. Ở trạng thái thứ ba bạn đã đạt tới, bạn đã đạt tới
chính cốt lõi của con người bạn - nhà, chứng ngộ, samadhi, tỏ ngộ, niết bàn. Bạn
đã đi tới điểm mà Thầy và đệ tử biến mất, nơi người sùng kính và Thượng đế biến
mất, nơi người tìm kiếm và cái được tìm biến mất, nơi mọi nhị nguyên biến mất.
Bạn đã siêu việt trên cái hai, bạn đã đi tới cái một.
Đây là chỗ tất cả
chúng ta đã từng tìm kiếm, và cái đẹp của nó là ở chỗ nó đã có đó rồi. Khi bạn
đã về tới nhà, bạn sẽ biết rằng người ta đã tới chỗ người ta bao giờ cũng ở.
Nhìn lại sau từ nhà, bạn sẽ cười. Bạn sẽ thấy rằng rừng rậm đã không có đó; nó
đã là vô thức của riêng bạn. Rừng đã không có đó; nó đã là năng lực mơ riêng của
bạn. Vườn đã không có đó; nó đã là nhận biết riêng của bạn.
Và nhà là con người
riêng của bạn, satchitanand. Nó là bạn, bản tính bên trong nhất của bạn,
swabhava, Đạo - hay gọi nó là bất kì cái tên nào bạn muốn gọi nó. Nó là vô
danh.
Đây là bốn giai đoạn,
và tôi đã nói về chúng trong chi tiết thế vì nó sẽ giúp bạn hiểu những lời kinh
này, và những lời kinh khác tiếp theo.
Bây giờ là lời kinh.
Không có gì ngoài nước
tại chỗ tắm linh thiêng;
và ta biết rằng chúng là vô dụng,
vì ta đã tắm trong chúng.
Kabir đang nói về rừng rậm.
Không có gì ngoài nước
tại chỗ tắm linh thiêng;
và ta biết rằng chúng là vô dụng,
vì ta đã tắm trong chúng.
Người ta không được
làm thuần khiết bởi việc tắm trong sông Hằng. Điều đó là ngu xuẩn; chính ý tưởng
này là ngu xuẩn - vì cái không thuần khiết của bạn không phải là của vật lí, cái
không thuần khiết của bạn không giống như bụi trên thân thể bạn. Vâng, chừng đó
sông Hằng có thể làm: nó có thể làm sạch thân thể bạn, nó có thể cho bạn thân
thể sạch sẽ, tươi tắn. Nhưng vấn đề không ở đó, cho nên giải pháp không thể ở
đó. Bụi là sâu hơn; không sông Hằng nào có thể lấy nó đi.
Và Kabir nói... 'Vì
ta đã tắm trong chúng.' Kabir nói: Ta đã từng trong rừng rậm - rừng rậm của
nghi lễ, giáo điều, kinh sách, tu sĩ, đền chùa, nhà thờ hồi giáo, tôn giáo chủ
nhật. Ta đã từng ở đó: nó là vô dụng.
Hình ảnh toàn không sống,
chúng không thể nói;
ta biết, vì ta đã
khóc to với chúng.
Và Kabir nói: Ta đã từng
tôn thờ các ảnh trong đền chùa - chúng là chết. Chúng không thể giúp đỡ. Ta đã
kêu to với chúng và chúng đã trả lời. Chúng được làm sẵn bởi con người, và các
thượng đế người làm sẽ không có tác dụng. Con người không thể tạo ra được Thượng
đế; Thượng đế đã tạo ra con người. Làm sao bạn có thể tạo ra được Thượng đế? Mọi
biểu tượng là nguy hiểm, vì có khả năng rằng bạn có thể bắt đầu nghĩ về biểu tượng
như là cái thực.
Biểu tượng không phải
là cái thực.
Không ảnh nào đại diện
cho Thượng đế, không lời nào đại diện cho chân lí. Từ 'Thượng đế' không phải là
Thượng đế, tất nhiên; từ 'lửa' không phải là lửa. Và bạn không thể ăn menu và
được thoả mãn. Menu không phải là thức ăn.
Nhớ, mọi biểu tượng
là tựa menu, và nhiều người đang ăn trên menu và khổ và đói, và họ tự hỏi tại
sao họ khổ. Hình ảnh, kinh sách, pháy biểu hệ thống lí thuyết - mọi biểu tượng
là vô dụng.
Hình ảnh toàn không sống, chúng không thể nói;
ta biết, vì ta đã khóc to với chúng.
Purana và Koran đơn thuần là lời;
nâng màn lên, ta đã thấy.
Và ngay cả sách sẽ
không giúp đỡ: Koran và Purana sẽ không giúp đỡ. Kinh sách của người Hindu và
người Mô ha mét giáo và người Ki tô giáo và người Do Thái sẽ không giúp đỡ.
Kabir nói: nâng màn lên, ta đã thấy. Ta đã nâng chiếc màn các từ và lời và triết
lí, và ta đã đi tới thấy - chân lí không có kết nối nào với lời, chân lí là vô
lời, chân lí ở bên ngoài lời. Chân lí không thể bị thu lại thành lí thuyết: nó
là bao la, và lí thuyết tất cả là rất hẹp. Chân lí là cái toàn thể; làm sao bất
kì lí thuyết nào có thể chứa được nó? Các lí thuyết giống như những hộp nhỏ, và
chân lí giống như toàn thể bầu trời. Làm sao những cái hộp nhỏ này có thể chứa
được nó?
…nâng màn lên, ta đã thấy.
Kabir thốt ra lời của
kinh nghiệm;
và ông ấy biết rõ rằng mọi thứ khác là không thực.
Và Kabir nói: Đừng
nghe theo bất kì cái gì khác hơn kinh nghiệm riêng của ông. Duy nhất kinh nghiệm
có tính tồn tại có thể làm hiển lộ chân lí cho bạn. Cái mĩ, thiện, chân - tất cả
họ đã trải nghiệm, nhưng điều đó không liên quan gì tới bạn: kinh nghiệm của
người đó không thể là kinh nghiệm của bạn. Jesus đã biết, nhưng điều đó không
liên quan gì tới bạn: kinh nghiệm của ông ấy là của ông ấy, và không thể chuyển
trao được.
Tôi đã thấy, tôi đã
biết, và tôi muốn bạn chia sẻ nó, tôi muốn nó được trao cho bạn - nhưng điều đó
là không thể được. Bạn không thể nhìn được qua mắt tôi, và bạn không thể cảm được
qua tim tôi. Và bất kì điều gì tôi nói sẽ chỉ trở thành biểu tượng cho bạn. Chừng
nào lời của tôi chưa làm cho bạn khao khát hơn - không vì nhiều lời hơn, mà vì
kinh nghiệm riêng của bạn - chừng nào bản thân bạn chưa bắt đầu tìm kinh nghiệm,
bạn sẽ không bao giờ về tới nhà... và nhà là không xa xôi gì.
Thực ra, xa nhất là rừng
rậm - gần hơn là rừng; gần hơn rừng là vườn của Thầy; và ngay bên trong vườn,
ngay ở trung tâm của vườn, là nhà của bạn. Nhà của bạn là điểm gần nhất với bạn;
phải là như vậy. Nó là hiện hữu của bạn.
'Ta cười,' Kabir nói:
pani vic min piyasi:
Ta cười khi ta nghe thấy
rằng cá trong nước khát:
Và Kabir nói: Nhìn
vào ông và thấy rằng ông khát, ta cười. Ta cười vì ta không thể tin được làm
sao điều nực cười này đã xảy ra - rằng cá khát trong nước sao? Ông khát, trong
nước sao? Ông là vô gia cư, và nhà ở bên trong ông sao? Và ông đang tìm đâu đó
cái mà ông bao giờ cũng mang cùng ông sao? Ông mang thai với chân lí, và ông
đang chạy xô đi đây đó, chỗ này chỗ kia sao?
Ta cười khi ta nghe thấy
rằng cá trong nước khát:
ông không thấy rằng cái thực là trong nhà ông,
và ông lang thang từ rừng nọ sang rừng kia
bơ phờ! Đây là chân lí!
Bây giờ là chân lí! Bạn là chân lí! Chân lí là chính hiện hữu của
bạn.
Đi nơi ông sẽ đi, tới Banaras hay tới Mathura;
Nếu ông không tìm thấy hồn của ông,
thế giới là không thực với ông.
Bạn sống trong thế giới
của ảo vọng, vì bạn thậm chí vẫn chưa chạm tới thực tại riêng của bạn. Trở nên
thực đi, và từ khoảnh khắc đó toàn thể thế giới trở thành thực với bạn. Vì bạn
là không thực, toàn thế giới được tạo ra trên cái phi thực tại của bạn; nó được
dựa trên cái không thực tại của bạn.
Con người trong rừng
rậm sống trong giấc ngủ; thế giới của người đó là của giấc ngủ. Người trong rừng
sống trong mơ; thế giới của người đó là thế giới của mơ. Con người của vườn sống
trong nhận biết, đang tới ngày càng gần hơn, trở nên ngày càng nhận biết hơn về
nhà. Người đó ở cửa. Cái gõ cửa, và cửa sẽ được mở ra cho bạn.
Đó là điều Jesus nói:
'Gõ cửa - và cửa sẽ được mở cho ông. Hỏi - và nó sẽ được cho. Tìm - và ông sẽ
thấy.'
Người thứ ba đã đi
vào trong vườn; bây giờ người đó có thể thấy nhà, nhưng dầu vậy người đó không ở
trong nhà. Khi bạn vào trong nhà, nó không là sushupti, ngủ, không mơ,
swabhana, không jagrati, nhận biết; nó là siêu tâm thức, hay tâm thức càn khôn.
Tất cả ba giai đoạn này đã được siêu việt lên, bạn đã đi ra ngoài.
Đây là trạng thái của
Thượng đế, Bhagwan, Allah. Khi el Hillaj Mansur nói, 'Ta là Chân lí,' ông ấy đã
ở trong trạng thái này. Khi Jesus tuyên bố, 'Ta và Thượng đế của ta, Cha ta, cả
hai là một,' ông ấy đã ở trong trạng thái này. Khi những người thấy Upanishad
tuyên bố, 'Aham Brahmasmi, ta là cái toàn thể,' họ đã ở trong trạng thái này.
Bhagwan là ở bên
trong bạn, Thượng đế là ở bên trong bạn, Vương quốc của Thượng đế là ở bên
trong bạn. Bây giờ vấn đề là tuỳ ở bạn để tìm, kiếm, khám phá ra nó. Vấn đề
không phải là phát minh ra bất kì cái gì, bạn đã có nó rồi. Bạn chỉ phải khám
phá. 'Nâng màn,' Kabir nói, 'ta đã thấy chân lí.' Tôi đã thấy chân lí mà không
thể được diễn đạt, tôi đã thấy chân lí mà không thể tả được.
Ở đây, tôi đang không
dạy gì khác hơn hiện hữu riêng của bạn. Tôi đang mang bạn tới gần không cái gì
khác hơn hiện hữu riêng của bạn. Tôi đang ném bạn trở lại bản thân bạn. Bạn
không bỏ lỡ bất kì cái gì; bạn chỉ quên kho báu ở bên trong bạn, bạn đã quên
cách nhìn vào bên trong. Lần nữa, lá bài Chàng Khờ trong bộ bài Tarot...
Nếu bạn đã nhìn một
cách có suy ngẫm vào con bài Tarot... và chúng là con bài để được suy ngẫm.
Chúng là phương pháp bí mật cổ của suy ngẫm. Con bài Chàng Khờ đang đứng trên mỏm
đá, một chân đung đưa, treo trên mỏm đá - và anh ta không nhận biết, và anh ta
đang nhìn lên các ngôi sao, và anh ta rất hạnh phúc; đầu anh ta phải đầy mơ. Và
anh ta đang mang bốn biểu tượng thiêng trên lưng, và anh ta không nhận biết
chúng là gì. Anh ta thậm chí không nhận biết rằng anh ta đang mang bốn biểu tượng
bí mật trên lưng. Đây là bốn biểu tượng bí mật: rừng rậm, rừng, vườn, nhà.
Bây giờ vấn đề là tuỳ
ở bạn. Nếu bạn quay lại... quay một trăm tám mươi độ sẽ được cần. Đó là điều
chuyển đổi là gì, đó là điều phẩm chất sannyas tất cả là gì. Nếu bạn quay, bạn
sẽ đơn giản thấy rằng bạn chưa bao giờ mất phúc lạc của mọi phúc lạc, vui sướng
của mọi vui sướng dù một khoảnh khắc. Bạn chưa bao giờ rời khỏi nhà của bạn; bạn
đã chỉ nghĩ rằng bạn đã đi xa xăm.
Bạn ở trong nhà; bạn
chưa bao giờ rời khỏi nó. Khi điều này được khám phá ra, người ta trở thành Phật,
người ta trở thành Christ, người ta trở thành Krishna. Đây là định mệnh của bạn.
Và chừng nào bạn chưa đạt tới nó, bạn sẽ không bao giờ thoải mái. Chừng nào bạn
chưa đạt tới nó, bạn sẽ không bao giờ có nghỉ ngơi. Con người phải là không ngừng
nghỉ. Con người là chiếc cầu. Con người còn chưa hiện hữu, con người là hứa hẹn.
Xem Chương 4 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá