Read more
Con Đường Của Yêu – Osho
Chương 4. Tôn giáo là việc nở hoa cá nhân
Câu hỏi thứ nhất:
Tại sao thầy nói tới Thượng đế là 'ông'? Cái đây này, sinh lực,
tính toàn bộ, cái không thể biết... Vâng, chẳng phải là rõ ràng hơn khi gọi Thượng
đế là 'nó' sao? Điều làm tôi khó chịu về từ 'ông' là ở chỗ 'ông' ngụ ý nhân
cách, ý chí, thẩm quyền phán xét, và năng lực yêu của tôi bị đủ làm tê liệt
không có chướng ngại đó. Vâng, bây giờ tôi thấy rằng câu hỏi là lối vào cho vấn
đề của tôi: làm sao tôi có thể tin cậy hay đi tới yêu thẩm quyền của thầy?
Thượng đế là không diễn
đạt được trong bất kì lời nào dù bất kì cái gì. Gọi Ngài là 'ông', và từ này
không diễn đạt được; gọi ngài là 'bà' và từ này không diễn đạt được; gọi ngài
là 'nó', và từ này không diễn đạt được, rất không diễn đạt. Nếu 'ông' nhắc nhở
bạn về nhân cách, 'nó' sẽ nhắc nhở bạn về vật.
Nếu 'ông' nhắc nhở bạn
về nam, 'bà' sẽ nhắc nhở bạn về nữ - vì mọi lời đều được tạo ra bởi con người
cho con người sử dụng, và Thượng đế không phải là sáng tạo của con người. Cho
nên bất kì cái gì bạn gọi Ngài để sẽ chỉ là biểu tượng.
Chọn bất kì biểu tượng
nào bạn thích đi: nếu bạn cảm thấy thích gọi Ngài là 'nó' thì gọi Ngài là 'nó'.
Nhưng nhớ, 'nó' có giới hạn riêng của nó, 'Nó' được dùng cho vật, cho vật chết;
và 'nó' có giới hạn khác: nó là rất trung lập. 'Nó' không có tính đáp ứng; nếu
bạn nói cái gì đó cho 'nó', sẽ không có đáp ứng, và yêu cần đáp ứng. Bạn có thể
nói với tường, nhưng sẽ không có đáp ứng; nó sẽ là độc thoại. Thượng đế được gọi
là 'ông' để cho việc nói huyên thuyên của bạn có thể trở thành đối thoại. Bằng
không nó sẽ là độc thoại - và điên: cái 'nó' không thể trả lời nó, cái 'nó'
không thể có tính đáp ứng, cái 'nó' không thể chăm nom tới bạn. Cái 'nó' là
trung lập. Dù bạn có cầu nguyện hay không cũng không tạo ra khác biệt; dù bạn
có tôn thờ hay không cũng không tạo ra khác biệt; dù bạn hiện hữu hay không
cũng không tạo ra khác biệt - cái 'nó' sẽ rất lạnh lùng. Nếu 'ông' tạo ra bối rối,
'nó' sẽ tạo ra nhiều bối rối hơn, nhắc bạn đấy. Làm sao bạn có thể yêu cái
'nó'? Bạn có thể sở hữu cái 'nó', bạn có thể dùng cái 'nó' - nhưng làm sao bạn
có thể yêu 'nó'?
Theo cách đó, 'ông'
dường như là tốt nhất, bởi nhiều lí do. Để tôi giải thích điều đó cho bạn. Thứ
nhất, nó đem nhân cách cho Thượng đế: Thượng đế trở thành người - sống động, với
tim đập, thở, rung động. Bạn có thể gọi Ngài, và bạn có thể tin cậy rằng sẽ có
đáp ứng. Bạn có thể nhìn Ngài, bạn có thể cảm Ngài, và bạn có thể tin cậy rằng
Ngài cũng sẽ cảm bạn. Nhân cách giúp bạn giao cảm, cầu nguyện, quan hệ. Nếu Thượng
đế không có nhân cách nó sẽ là ở bên ngoài bạn thế, nó sẽ không thể quan niệm
được. Bạn là người, bạn cần một Thượng đế cũng là người nữa - vì bạn có thể
quan hệ chỉ với người. Chừng nào bạn chưa trở thanh người vô nhân, bạn không thể
quan hệ với người vô nhân. Tôn giáo đã tồn tại, đặc biệt ở phương đông - Phật
giáo, Jaina giáo - không nói về Thượng đế chút nào. Nhưng thế thì họ không thể
nói về lời cầu nguyện, và họ không thể nói về yêu. Khoảnh khắc họ bỏ ý tưởng về
Thượng đế, về Thượng đế người, về đấng sáng tạo, về ai đó người có thể nhìn vào
bạn, cầm tay bạn, ôm bạn; khoảnh khắc họ bỏ ý tưởng về Thượng đế người, họ phải
bỏ ý tưởng về lời cầu nguyện như hệ quả, như hệ quả cần thiết. Tôn thờ phải bị
bỏ đi, lời cầu nguyện phải bị bỏ đi, hát, múa, phải bị bỏ đi - vì bạn hát cho
ai, và bạn múa cho ai? Không có người nào, chỉ mắt lạnh lùng khắp xung quanh.
Và sự tồn tại là bao
la thế... Bạn nói, "Tại sao không nói tính đây này?" Làm sao bạn sẽ
có quan hệ với tính đây này? Nó sẽ bao la thế; bạn sẽ không có khả năng ôm
choàng nó.
Với 'ông', Thượng đế
trở thành nhỏ như bạn vậy. Bạn có thể cầm tay Ngài. Bàn tay của cái đây này
sao? - điều đó là không thể được. Với 'ông' Ngài trở thành ấm áp; đây này là lạnh
lẽo, sự tồn tại là lạnh lẽo. Bạn sẽ đông cứng! Jaina giáo, Phật giáo, đã bỏ ý
tưởng về Thượng đế vì những vấn đề này - triết lí, ngữ văn; những vấn đề nảy
sinh ra từ ngôn ngữ và văn phạm và logic. Họ đã bỏ ý tưởng này, chính ý tưởng
này. Nhưng thế thì lời cầu nguyện biến mất, và Jaina giáo trở thành nghèo vì điều
đó… Suy ngẫm còn lại... nỗ lực rất đơn độc.
Bạn có quan sát điều
đó không? - bạn có thể suy ngẫm một mình, bạn có thể cầu nguyện cùng nhau. Lời
cầu nguyện là giao cảm. Người Ki tô giáo, người Mô ha mét giáo, người Do Thái -
họ biết lời cầu nguyện là gì. Jaina giáo và Phật giáo hoàn toàn mất hút dấu vết
của lời cầu nguyện. Và lời cầu nguyện có cái đẹp của riêng nó. Thiền nhân dường
như bị đóng trong bản thân người đó, người đó không mở. Người đó bị ném về bản
thân người đó trong tính một mình sâu. Người đó có thể trở thành im lặng, nhưng
người đó không thể trở thành cực lạc.
Cực lạc xảy ra chỉ
khi có hai, yêu xảy ra chỉ khi có hai. Khi bạn một mình, bạn có thể im lặng,
tĩnh lặng, nhưng bạn không thể đập rộn ràng bởi niềm vui, bạn không thể múa.
Người Sufi múa vì họ gọi tới Thượng đế; người đó có thể khẩn cầu Thượng đế theo
cách con người. Jaina giáo và Phật giáo trở nên rất nghèo nàn. Và khi Phật giáo
lan toả bên ngoài Ấn Độ, nó bắt đầu nói về Phật như Thượng đế - và qua Phật, lời
cầu nguyện lại đi vào. Trong Jaina giáo lời cầu nguyện không bao giờ đi vào, và
Jaina giáo không bao giờ có thể lan toả được. Nó vẫn còn là một giáo phát rất
tí hon, chết. Nó không có tính người.
Đây này, sự tồn tại,
tính toàn bộ - những từ lớn lao, nhưng chết. Chúng không đập rộn ràng. Làm sao
bạn có quan hệ với tính toàn bộ, nói cho tôi xem nào? Làm sao bạn sẽ gọi tính
toàn bộ? Làm sao bạn sẽ kết nối bản thân bạn với tính toàn bộ? Bạn sẽ quá tí
hon, và cái bao la của tính toàn bộ là lớn thế, bạn sẽ bị mất hút.
Không, Thượng đế phải
được quan niệm theo cách con người. Gọi Ngài là 'ông' là rất có tính người.
Vâng, dần dần, khi bạn lại gần Ngài, bạn biết Ngài, bạn thấm đẫm Ngài, một ngày
nào đó sẽ không có nhu cầu gọi Ngài là 'ông'. Bạn có thể bỏ điều đó. Một khi mối
liên hệ được tạo ra, một khi các biên giới của bạn và của Ngài không còn tách rời,
khi các biên giới của của bạn và biên giới của ngài đã được trộn lẫn vào trong
một sự tồn tại, thế thì sẽ không có nhu cầu. Bạn có thể đơn giản cúi mình mà thậm
chí không dùng một lời. Bạn có thể đơn giản ngồi trong im lặng và lời cầu nguyện
sẽ có đó. Bạn sẽ cầu nguyện mà không có bất kì lời cầu nguyện nào. Nhưng đó là
phát triển về sau. Lúc bắt đầu, bạn sẽ lúng túng nếu nạn không gọi Ngàu bằng bất
kì tên người nào, nếu bạn không làm Ngài thành người.
Bây giờ, có hai khả
năng: hoặc bạn gọi Ngài là 'ông', hoặc bạn gọi Ngài là 'bà' - cả hai đã được
dùng. Người Sufis gọi Ngài là 'bà': người được yêu, nữ tính. Người Ki tô giáo,
người Do Thái, gọi Ngài là 'ông', điều đó ngụ ý bạn không cần đi tìm Ngài; Ngài
sẽ tới, Ngài là nam. Và đó là cái đẹp của nó: đàn bà có thể đợi, và người yêu sẽ
tới.
Người Do Thái nói:
Ông không chỉ đi tìm Thượng đế, Thượng đế đang đi tìm ông. Đó là cái đẹp của đại
từ 'ông'. Đây là biểu tượng, có ý nghĩa, có thể có giá trị vô cùng. Người Do
Thái nói: Ngài đang đi tìm ông; ông có thể đợi như đàn bà, ông có thể trở thành
việc chờ đợi vô cùng, chỉ là việc đợi, chỉ là việc mở, sẵn sàng đón khách. Và
khách đang tới, vì nam tới trong việc tìm nữ.
Người Sufi gọi Ngài
là 'bà'; thế thì toàn thể cuộc hành trình thay đổi: thế thì bạn phải đi tìm
Ngài, thế thì bạn phải tìm ra Ngài. Tất nhiên, cuộc hành trình trở thành khó
hơn. Nếu bạn phải đi tìm Thượng đế, việc bạn sẽ thành công sẽ dường như là gần
như không thể được. Bạn sẽ tìm Ngài ở đâu? - địa chỉ không được biết tới. Cho
dù Ngài tới bên cạnh, bạn sẽ không có khả năng nhận ra Ngài, Ngài sẽ là người lạ
thế. Bạn chưa bao giờ thấy Ngài trước đây, cho nên làm sao bạn sẽ quyết định được,
'Vâng, đây là Thượng đế'? Điều đó sẽ là khó. Và bạn sẽ đi đâu? - tới Kasi, tới
Mathura, tới Mecca, tới Jerusalem? Bạn sẽ đi đâu? Tới Himalayas? Bạn sẽ đi đâu?
Làm sao bạn sẽ đi? Hướng của bạn là gì? Từ chính lúc bắt đầu sẽ có hoang mang.
Đợi là tốt hơn đi tìm
Ngài. Tốt hơn cả là chờ đợi, và tin cậy, và cầu nguyện, và để Ngài tới với bạn.
Đó là nghĩa của việc gọi Ngài là 'ông' - rằng Ngài có thể tới. Bạn trở thành
đàn bà, thế thì Ngài trở thành đàn ông - và trò chơi bắt đầu. Nếu bạn trở thành
đàn ông, tất nhiên thế thì đó là trách nhiệm của bạn đi tìm Ngài. Người Sufi đi
tới Thượng đế; với người Do Thái, Thượng đế đi tới người đó; với người Hassid,
Thượng đế đi tới người đó.
Bây giờ vấn đề dành
cho bạn quyết định. Tôi không nói gọi Ngài là 'ông'; điều đó dành cho bạn quyết
định. Với tôi dường như 'ông' là kinh tế hơn, láu lỉnh hơn, nhưng nếu bạn thuộc
về phong trào giải phóng phụ nữ, bạn có thể gọi Ngài là 'bà'. Nhưng thế thì bạn
phải hiểu các hậu quả của nó. Đó không chỉ là vấn đề văn phạm; không chỉ là vấn
đề triết lí, ngôn ngữ. Điều đó là đang lấy thái độ nào đó. Bằng việc gọi Ngài
là 'ông', bạn tuyên bố bản thân bạn là đàn bà: với điều đó, nó là nỗ lực khác
toàn bộ. Bằng việc gọi Ngài là 'bà', bạn gọi bản thân bạn là đàn ông. Đàn ông
là năng nổ. Nếu bạn gọi Ngài là 'bà' bạn sẽ trở thành năng nổ, bạn sẽ bắt đầu
chinh phục Thượng đế. Thế thì Thượng đế sẽ phải buông xuôi theo bạn. Làm sao bạn
có thể buông xuôi theo Thượng đế được? thế thì bạn sẽ là quá nhiều trong tâm
trí nam năng nổ.
Nhưng nếu bạn gọi
Ngài là 'ông', bạn phải buông xuôi theo Ngài. Ngài phải tới và đánh bại bạn, và
làm bạn thắng lợi trong thất bại của bạn. Ngài phải tới và áp đảo bạn, và làm
ngập lụt bạn, và phá huỷ bạn, triệt tiêu bạn - và tái tạo bạn.
Cảm giác của tôi vẫn
là thế này: gọi Ngài là 'ông'. Bạn sẽ được lợi, bạn sẽ được ban ân huệ.
Và câu hỏi thứ hai
cũng có đó trong câu hỏi thứ nhất:
'Vâng, bây giờ tôi thấy rằng câu hỏi là lối vào cho vấn đề của
tôi: làm sao tôi có thể tin cậy hay đi tới yêu thẩm quyền của thầy?'
Tôi không có thẩm quyền
nào. Bạn không cần tin cậy vào thẩm quyền của tôi. Tôi chỉ là một người, sự hiện
diện; tôi không là người thẩm quyền. Tôi không chứng minh bất kì cái gì cho bạn,
tôi không tranh cãi vì cái gì đó, tôi không biện hộ bất kì lí thuyết hay triết
lí nào, tôi không cố thuyết phục bạn về bất kì cái gì dù đó là bất kì cái gì.
Tôi không có thẩm quyền
vì tôi không thuộc vào bất kì truyền thống nào. Chỉ các truyền thống có thể có
thẩm quyền. Người Hindu có thẩm quyền - từ Veda, Upanishad, Gita; người Mô ha
mét giáo có thẩm quyền từ Koran; người Ki tô giáo có thẩm quyền từ Kinh Thánh,
từ giáo hoàng. Thẩm quyền tới từ truyền thống; tôi là phi truyền thống tôi
không tuyên bố bất kì truyền thống nào. Tôi không thể nói rằng bất kì cái gì
tôi đang nói là đúng vì Veda cũng nói điều đó. Tôi không thể trích dẫn. Tôi
không thể nói rằng bất kì cái gì tôi đang nói là đúng, phải là đúng, vì Jesus
cũng nói cùng điều, Mohammed cũng nói cùng điều.
Không, tôi không nhận
bất kì hỗ trợ nào từ bất kì người nào: bất kì cái gì tôi nói, là tôi nói. Tôi
biết nó theo cách đó. Tôi không có thẩm quyền khác hơn bản thân tôi. Tôi là sự
hiện diện, là người. Bạn không cần tin cậy vào thẩm quyền của tôi, tôi không phải
là chuyên gia... Tôi là người nổi dậy; làm sao tôi có thể có bất kì thẩm quyền
nào? Kinh nghiệm riêng của tôi là mọi điều tôi có. Bạn có thể nhìn vào tôi, bạn
có thể nhìn vào mắt tôi, bạn có thể cảm tôi, bạn có thể uống tôi, và điều đó sẽ
quyết định.
Và đây sẽ không là mối
quan hệ giữa người có thẩm quyền và người không có thẩm quyền. Đây sẽ không là
mối quan hệ giữa người biết và người dốt; đây sẽ không là quan hệ giữa thầy
giáo và học sinh. Không, giáo sư trong đại học có thẩm quyền, và sinh viên phải
học từ ông ấy. Ông ấy biết cái gì là đúng và ông ấy biết cái gì là sai, và sinh
viên đơn giản phải nhường ông ấy.
Tôi không có thẩm quyền
theo bất kì cách nào. Tôi ở đây: tôi là lời tuyên bố, việc khải lộ. Bạn nghe
tôi, bạn hấp thu tôi, bạn uống tôi. Nếu chính hương vị này quyết định cái gì
đó, điều đó là được; nếu nó không quyết định, thế thì tôi không dành cho bạn, bạn
không dành cho tôi. Thế thì nó lời tạm biệt với tôi. Thế thì không có nhu cầu
quanh quẩn ở đây; điều đó sẽ là vô tích sự. Nó là chuyện tình. Khi bạn yêu một
người bạn không hỏi thẩm quyền. Yêu là điên, nó là dại.
Tôi ở đây chỉ cho những
người dũng cảm, người có thể là điên cùng tôi. Tôi tồn tại cho những người lập
dị. Tôi tồn tại chỉ cho rất ít người được chọn, người lập dị: những người sẵn
sàng đi cùng tôi vào bóng tối; người sẵn sàng đi cùng tôi và mạo hiểm. Và tôi
không hứa với bạn bất kì cái gì.
Tôi không thể hứa được,
trong chính bản chất của mọi sự. Chân lí không thể được hứa hẹn, bạn phải cảm
nó. Nhớ, thẩm quyền hấp dẫn cái đầu, lí trí. Tôi không hấp dẫn lí trí, hấp dẫn
của tôi là trái tim. Tim không bận tâm về thẩm quyền. Khi bạn rơi vào yêu người
đàn bà, bạn có hỏi thẩm quyền không? Cô ấy có bất kì thẩm quyền nào từ
Cleopatra rằng cô ấy là đẹp không? Bạn có hỏi chứng chỉ không? - cô ấy có được
xác nhận bởi các chuyên gia rằng cô ấy thực sự đẹp không? Bạn có đem cô ấy tới
bác sĩ để khám cô ấy, tới các triết gia thẩm mĩ để quyết định liệu cô ấy là thực
sự đẹp không? Không, cho dù toàn thế giới nói rằng cô ấy đẹp, bạn nói, 'Tôi
không quan tâm.
Tôi yêu cô ấy, và tôi
biết rằng cô ấy đẹp.' Cô ấy đẹp vì bạn yêu, không thì không có vậy. Bạn không
yêu cô ấy vì cô ấy đẹp; cô ấy trở nên đẹp vì bạn yêu cô ấy.
Tôi trở thành thẩm
quyền từ bạn yêu tôi, bằng không thì không đâu. Bếu bạn hỏi về thẩm quyền, thế
thì bạn sẽ không bao giờ yêu hổi. Thế thì tốt hơn cả là chúng ta rời khỏi nhau,
càng sớm càng tốt. Tôi sẽ không tạo ra bất kì thẩm quyền nào; tôi không có. Bạn
phải nhìn vào trong bản thân người đó. Bạn phải nhìn vào tôi, bất kì sự hiện diện
nào, bạn phải cảm thấy nó một cách thân thiết.
Đó là lí do tại sao
tôi nói rằng dũng cảm được cần, và chỉ dũng cảm có thể yêu. Yêu là dũng cảm lớn
nhất trên thế giới - vì nó không thể phụ thuộc vào bất kì cái gì khác, nó phải
phụ thuộc chỉ vào linh cảm, nó phải phụ thuộc vào trực giác; nó không thể phụ
thuộc vào trí tuệ. Không có bằng chứng. Yêu không đòi hỏi bằng chứng khác, và
yêu không thể tạo ra bất kì bằng chứng nào.
Người Do Thái phải
bác bỏ Jesus. Tại sao? - vì ông ấy không thể tạo ra được thẩm quyền. 'Nhưng thẩm
quyền nào?' họ đã hỏi đi hỏi lại - 'Nhưng ông nói từ thẩm quyền nào? Ai đã cho
ông thẩm quyền để nói?' Ai có thể trao thẩm quyền cho Jesus? Và bất kì cái gì
ông ấy đã nói đều ngớ ngẩn. Ông ấy đã nói, 'Thẩm quyền sao? Trước khi có
Abraham, có ta.' Bây giờ, Abraham là nhà tiên tri được kính trọng nhất của người
Do Thái. Và Jesus nói: Trước khi có Abraham, có ta. Ngay cả Abraham cũng không
thể làm cho ta thành có thẩm quyền. Ta không đi theo Abraham, ta đã đi trước
ông ấy.
Bây giờ điều này là
ngớ ngẩn, vì kẽ hở thời gian là bao la thế; Abraham đã ở trước hàng nghìn năm.
Và Jesus nói: Trước khi có Abraham, đã từng trước, có ta. Sự tồn tại của ta đi
trước sự tồn tại của Abraham. Ai có thể cho ta thẩm quyền? Và ông ấy là đúng,
vì cội nguồn mà ông ấy đã chạm tới là trong bản thân ông ấy, nó là nội bộ. Cội
nguồn ông ấy đã chạm tới trong bản thân ông ấy không cần thẩm quyền để chứng
minh nó. Ngược lại: Jesus trở thành bằng chứng rằng Abraham đã là đúng. Điều
này là hết sức phi lí.
Đó là điều tôi đang
nói: tôi là bằng chứng rằng Krishna đã là đúng; tôi là bằng chứng rằng Phật đã
là đúng; tôi là bằng chứng rằng Jesus đã là đúng, bằng không thì không đâu.
Cho nên tôi không có
thẩm quyền. Tôi ở đây - nhận điều đó hay rời khỏi điều đó.
Câu hỏi thứ hai:
Cái hiểu của tôi là ở chỗ tri thức là việc hiểu.
Trí huệ của hiền nhân là trí huệ của các thời đại.
Xin thầy đưa tôi tới trí huệ.
Trong một câu hỏi có
ba câu hỏi. Thứ nhất: Cái hiểu của tôi là ở chỗ tri thức là việc hiểu. Không,
thưa ngài. Tri thức không bao giờ là việc hiểu. Tri thức là lừa dối của việc hiểu.
Tri thức là đồng tiền giả, cái thay thế; nó không là việc hiểu. Tri thức được
vay mượn, việc hiểu không bao giờ được vay mượn. Việc hiểu là của bạn, tri thức
bao giờ cũng của người khác. Việc hiểu nảy sinh từ nhận biết của bạn, tri thức
nảy sinh từ việc học của bạn. Và quá trình này là khác nhau toàn bộ, đối lập đối
xứng. Nếu bạn muốn hiểu bạn sẽ phải dỡ bỏ mọi điều bạn đã học. Tri thức vận
hành như rào chắn, tri thức phải bị bỏ đi. Cái biết phải dừng cho cái không biết
hiện hữu.
Việc hiểu là về cái
không biết, tri thức là về cái biết. Tri thức là kí ức của bạn, việc hiểu là
chính con người bạn. Tri thức là ánh sáng được vay mượn. Tri thức giống như mặt
trăng, việc hiểu giống như mặt trời. Trăng sống theo ánh sáng được vay mượn; nó
phản xạ tia sáng mặt trời, nó không có ánh sáng của riêng nó. Mặt trời có ánh
sáng của riêng nó.
Bạn nói, 'Cái hiểu của
tôi là ở chỗ tri thức là việc hiểu.' Thế thì bạn đã hiểu lầm rồi, thưa ngài.
Thứ hai: Trí huệ của
hiền nhân là trí huệ của các thời đại. Không, không chút nào. Trí huệ của hiền
nhân không có quan hệ với thời gian. Nó không là trí huệ của các thời đại. Điều
đó là điều khác toàn bộ. Trí huệ của hiền nhân không là gì ngoài tri thức tập
thể, kinh nghiệm tập thể của nhân loại. Mọi người đã sống, mọi người đã trải
nghiệm; dần dần, họ liên tục suy diễn ra tri thức nào đó từ kinh nghiệm của họ.
Đám đông... trí huệ của
các thời đại tới qua đám đông. Nó là sản phẩm đám đông: nó tới từ thời gian, từ
kinh nghiệm. Và trí huệ của hiền nhân không bao giờ tới từ thời gian, nó tới từ
vô thời gian. Khi người ra đi ra ngoài thời gian, thế thì người ta trở thành
trí huệ. Khi người ta chuyển vào trong thời gian, người ta trở thành am hiểu.
Người già là am hiểu; người già không nhất thiết trí huệ, nhớ lấy. Người già
không nhất thiết trí huệ và người trí huệ không nhất thiết già.
Shankaracharya đã rất
trẻ; khi ông ấy ba mươi ba ông ấy chết. Nhưng ông ấy đã cực kì trí huệ. Phật đã
gần bốn mươi khi ông ấy trở nên chứng ngộ. Mohammed gần bốn mươi khi ông ấy trở
nên chứng ngộ. Họ đã đối diện với những người già hơn bản thân họ; đó là một
trong các xung đột. Khi Phật đi tới bố riêng của ông ấy, tất nhiên, bố là bố.
Và như mọi bố đều vậy, người bố cười vào cái ngu xuẩn này. Ông ta nói. 'Cái gì?
Con muốn dạy ta sao? Con là con trai ta. Ta già hơn con, ta là bố của con. Ta
đã biết thế giới, ta đã biết cuộc sống - khổ của nó, phúc lành của nó. Chắc chắn
ta biết nhiều hơn con biết!' Và Phật nói, 'Điều đó là đúng, thưa bố. Bố biết
nhiều hơn khi có liên quan tới tri thức, kí ức của bố là lớn hơn kí ức của ta
nhiều. Nhưng ta đã không mang tri thức tới bố. Ta đã mang cái gì đó mới toàn bộ
và ánh sáng bên trong đã nảy sinh trong ta, ngọn lửa. Và ta thấy bố đang sống
trong bóng tối.' Người bố cảm thấy bị tổn thương. Bản ngã của ông ấy bị tổn
thương, ông ấy giận.
Chắc chắn, Jesus đã
là rất trẻ. Và nếu các giáo sĩ già đã không sẵn lòng nghe ông ấy, điều đó dường
như tuyệt đối là được. Tại sao họ phải nghe một thanh niên, người đã không biết
thế giới, người còn chưa sống? Jesus mới ba mươi ba tuổi khi ông ấy bị đóng
đinh. Ông ấy đã bắt đầu thuyết giảng khi ông ấy ba mươi tuổi - rất trẻ - và bất
thần. Mọi người đã biết ông ấy làm việc trong xưởng mộc của bố ông ấy, chặt gỗ,
đánh bóng gỗ. Ông ấy đã là con trai của thợ mộc. Không ai đã bao giờ mơ rằng cậu
bé này đột nhiên trở thành người trí huệ. Một hôm ông ấy đã tuyên bố rằng ông ấy
là Chúa cứu thế, rằng ông ấy là con trai của Thượng đế. Chắc chắn, làm sao mọi
người có thể tin vàp điều đó được? Họ đã biết ông ấy như thợ mộc; ông ấy đã làm
đồ đạc cho họ, và ông ấy đã làm những việc bình thường trong thị trấn - và đột
nhiên ông ấy đã tuyên bố sao? 'Ông ta phải đã phát điên.'
Nhớ, bao giờ trí huệ
cũng bị đóng đinh trên cây chữ thập, vì người am hiểu không thể dung thứ được
điều đó. Điều đó xúc phạm, nó có tính sỉ nhục.
Trí huệ bao giờ cũng
là vô thời gian; nó chẳng liên quan gì với kinh nghiệm sống của bạn. Và điều bạn
gọi là 'trí huệ của các thời đại' là khác toàn bộ - nó là sản phẩm của đám
đông. Mọi người đã sống trên trái đất này lâu thế, và họ đã trải nghiệm nhiều
điều, và tất nhiên họ đã suy diễn, họ đã đi tới những kết luận nào đó. Trí huệ
không phải là kết luận. Nó không là từ kinh nghiệm; trí huệ là việc chiếu sáng,
trí huệ là khải lộ. Nó là bất thần, như chớp loé. Nó không được chứng minh, nó
không thể được chứng minh. Trong chính bản chất của chân lí của nó, nó không thể
được chứng minh. Bạn phải rơi vào yêu với nó hay không. Nó là bất thần thế và
không liên quan gì tới những tình huống cuộc sống và kinh nghiệm của bạn - làm
sao nó có thể được chứng minh? Jesus có thể cho bạn bằng chứng nào? Ông ấy đã
cho cuộc sống riêng của ông ấy, nhưng ông ấy không thể cho bất kì bằng chứng
nào.
Bạn có nhớ không? Điều
cuối cùng ông ấy được hỏi trước khi bị đóng đinh: Pilate, thống đốc La Mã,
Pontius Pilate đã hỏi ông ấy, 'Chân lí là gì?' Và Jesus vẫn còn im lặng. Ông ấy
nhìn vào mắt của thống đốc nhưng ông ấy đã không nói một lời. Tại sao Jesus vẫn
còn im lặng? Ông ấy đang phải nói cái gì đó... nhưng chân lí không thể được
nói. Và điều ngu xuẩn là hỏi một người như Jesus, 'Chân lí là gì?' Jesus không
phải là bác học; ông ấy không là giáo sư, ông ấy không là triết gia. Ông ấy sẽ
không cho lí thuyết về chân lí, bản thân ông ấy là chân lí. Ông ấy đứng đó tuyệt
đối trong im lặng; ông ấy đã làm cho bản thân ông ấy thành sẵn có, ông ấy đã
làm cho sự hiện diện của ông ấy thành sẵn có.
Nhưng Pilate đã không
thể hiểu được điều đó; ông ta đã không thể thấy được chân lí. Ông ta đã khao
khát về vài lời, rằng người này chắc sẽ nói vài lời. Và người này đã không nói
một điều gì - và vậy mà người này đã khẳng định mọi thứ mà có thể được nói về
chân lí. Ông ấy đã làm lộ ra bản thân ông ấy: ông ấy ở đó, sự hiện diện của ông
ấy đã ở đó, rung động của ông ấy đã ở đó. Nếu Pilate mà có chút ít cảm nhận,
ông ta chắc đã biết chân lí là gì.
Chân lí không là từ
kinh nghiệm của các thời đại; chân lí không là kinh nghiệm chút nào. Khi mọi
kinh nghiệm biến mất, và chỉ người trải nghiệm được bỏ lại trong tâm thức thuần
khiết... Tâm thức không nội dung là điều chân lí là gì. Nó không phải là kinh
nghiệm; không phải là bạn trải nghiệm cái gì đó. Không, không cái gì còn lại để
trải nghiệm, không cái gì dù là bất kì cái gì - chỉ bầu trời thuần khiết, không
đối thể, duy nhất tính chủ thể, đập cùng tính toàn bộ, nhảy múa; chỉ tính chủ
thể, chỉ tâm thức thuần khiết mà không có bất kì nội dung nào. Nó không phải là
kinh nghiệm.
Để tôi nói với bạn
theo cách này: Thượng đế không phải là kinh nghiệm, nó ở bên ngoài kinh nghiệm.
Thế giới là kinh nghiệm, Thượng đế không là kinh nghiệm. Kinh nghiệm là có thể
chỉ trong nhị nguyên. Khi tôi tách rời khỏi bạn tôi có thể trải nghiệm bạn. Khi
tôi là một với bạn, làm sao tôi có thể trải nghiệm bạn? Làm sao tôi sẽ phân
chia người trải nghiệm và kinh nghiệm, người biết và cái được biết, người thấy
và cái được thấy? Không, điều đó là không thể được. Chủ thế và đối thể đã mất
biên giới của chúng; chúng đã trở thành một - bây giờ ai là người biết và ai là
cái được biết?
Trí huệ là việc loé
sáng đó nơi cái biết và người biết trở thành một, khi người thấy và cái được thấy
trở thành một, khi mọi nhị nguyên biến mất và chỉ một còn lại, duy nhất một.
Trong trải nghiệm người khác được cần; trải nghiệm dựa trên người khác, hướng tới
người khác.
Bạn nói, 'Trí huệ của
hiền nhân là trí huệ của các thời đại.' Nó không phải vậy. Trí huệ của hiền
nhân là vô thời gian: nó ở bên ngoài kinh nghiệm, nó là siêu việt; và trí huệ của
thời đại là trần tục, theo thời gian, dựa trong kinh nghiệm.
Và thứ ba: Xin thầy
đưa tôi tới trí huệ. Điều đó là không thể được. Nếu ai đó khác đưa bạn đi, nó sẽ
là tri thức. Lần nữa bạn sẽ bị sập bẫy trong tri thức. Không ai có thể đưa bạn
vào trí huệ - vì người khác sẽ là nguyên nhân của tri thức. Duy nhất bạn có thể
là nguyên nhân của trí huệ riêng của bạn. Bạn có thể hỏi, 'Thầy đang làm gì ở
đây?' Tôi không đưa bạn vào trí huệ. Tôi chỉ có thể làm một điều, điều phủ định:
Tôi đang cố phá huỷ tri thức của bạn. Tôi đơn giản loại bỏ cản trở, rào chắn;
tôi đơn giản loại bỏ đá trên con đường của bạn, có vậy thôi. Và đá là tri thức.
Một khi đá đó bị loại bỏ bạn sẽ bắt đầu tuôn chảy. Đài phun nước có đó, bị chắn
bởi đá.
Trí huệ của bạn là
cùng với bạn; nó là sinh lực của bạn, nó là tính sống của bạn, nó là tinh thần
hăng hái của bạn. Nó có đó. Một khi bạn trở nên đủ bạo dạn bỏ tri thức, một khi
bạn trở nên đủ bạo dạn để là hồn nhiên, đủ bạo dạn để là dốt nát; một khi bạn
có thể nói 'Tôi không biết'; một khi bạn đã thu lấy dũng cảm đó để tuyên bố,
'Tôi không biết, và mọi điều tôi biết chỉ là ảo vọng, mọi tri thức của tôi đều
được vay mượn, hư huyễn, trống rỗng' - khoảnh khắc bạn bỏ tri thức của bạn, trí
huệ nảy sinh.
Tôi không thể đưa bạn
tới trí huệ được. Trí huệ sẽ nảy sinh trong bạn, nó sẽ trào lên trong con người
bạn. Chỉ bỏ tảng đá bạn đang mang - và tảng đá đó là tri thức.
Và nếu bạn nghĩ rằng
tri thức là việc hiểu, thế thì làm sao bạn sẽ bỏ được tảng đá? Thế thì bạn sẽ bảo
vệ nó. Nếu bạn nghĩ tri thức là trí huệ, thế thì tất nhiên với bạn tôi sẽ có vẻ
là kẻ thù, người đang cố lấy trí huệ của bạn.
Thầy chỉ có thể có
tính phủ định; Thầy không thể cho bạn bất kì cái gì khẳng định. Và tránh bất kì
người nào nói với bạn rằng người đó đang cho bạn cái gì đó khẳng định. Tránh ra...
Thầy chỉ giúp loại bỏ rào chắn, Thầy là qua phủ định - via negative; thầy là
con đường của phủ định. Thầy đơn giản lấy đi: thầy nói, 'Cái này là không thực,
Cái này là không thực, Cái này là không thực' - thầy liên tục loại bỏ. Một ngày
nào đó đột nhiên thầy đã lấy đi mọi cột chống khỏi bạn: bạn sụp đổ, bạn sụp đổ
trong trí huệ. Một ngày nào đó đột nhiên, khi mọi khả năng chịu đựng của bạn đã
bị lấy đi, cái gì đó nảy sinh trong bạn, bật ra trong bạn - như chớp loé. Đó là
điều trí huệ là gì: nó là bản chất bên trong nhất của bạn. Nó không thể được
trao cho bạn.
Có ba kiểu thầy giáo
trên thế giới: một kiểu tôi gọi là lôi cuốn, kiểu khác tôi gọi là phương pháp,
và kiểu thứ ba tôi gọi là tự nhiên. Ba phân chia này cũng là những phân chia của
nhà trị liệu nữa; có ba kiểu nhà trị liệu: lôi cuốn, phương pháp, tự nhiên.
Phân chia này phải được hiểu.
'Charisma-lôi cuốn' bắt
nguồn từ từ Hi Lạp có nghĩa tinh thần, đầy tinh thần. Người lãnh đạo lôi cuốn
là đầy tinh thần tới mức nếu bạn đi tới người đó, bạn sẽ trở thành nô lệ. Người
đó đầy tinh thần thế, người đó sẽ áp đảo bạn; người đó sẽ không bận tâm về bạn;
người đó sẽ trở thành người lãnh đạo.
Tôi không là người
lãnh đạo, tôi không là Thầy lôi cuốn, thầy giáo lôi cuốn, vì thầy giáo lôi cuốn
là nguy hiểm: ông ấy giết bạn, bạn bị làm thành vô hiệu, con người bạn bị xoá
đi. Ở dưới hướng dẫn của người lôi cuốn là giống như cố mọc lên dưới cây lớn -
không thể được. Điều đó là không thể được. Bạn có thể nghĩ cây được bảo vệ
nhưng mọc dưới cây lớn là điều không thể được.
Bạn thấy cây sồi lớn
không? Hàng nghìn hạt sồi rơi dưới cây sồi và chết. Chúng không bao giờ mọc
lên, chúng không thể mọc được. Chúng có thể bị lừa vì chúng sẽ ở dưới cây mẹ và
sẽ có bảo vệ - nhưng bảo vệ là độc. Hạt sồi phải đi xa xôi, phải là độc lập; chỉ
thế thì nó mới có thể trở thành cây. Bằng không nó sẽ không bao giờ trở thành
cây.
Người lôi cuốn là
nguy hiểm, và mọi người bị hút rất mạnh tới người lôi cuốn. Người lôi cuốn
không bao giờ là Thầy thực; người đó trở thành người trông coi nô lệ. Người lôi
cuốn nhiều tính chính trị hơn người tôn giáo. Adolf Hitler có tính lôi cuốn,
Mussolini có tính lôi cuốn. Những người lãnh đạo có tính lôi cuốn: họ phải lãnh
đạo mọi người, họ phải làm mọi người thành nô lệ, họ phải chi phối và độc tài.
Kiểu thứ hai của thầy
giáo-Thầy-người lãnh đạo là có tính phương pháp. Người đó dùng phương pháp,
không dùng tinh thần. Người đó sẽ không áp đảo bạn bằng tinh thần của người đó,
người đó sẽ đơn giản cho bạn phương pháp - tốt hơn kiểu thứ nhất, vì người đó sẽ
không bao giờ làm bạn thành nô lệ.
Từ 'method-phương
pháp' lại bắt nguồn từ gốc Hi Lạp có nghĩa 'đi theo'. Kiểu thứ hai của người
lãnh đạo-Thầy-thầy giáo sẽ đi theo đệ tử; người đó sẽ cho phương pháp. Người đó
sẽ không bao giờ lãnh đạo bạn, người đó sẽ đi theo bạn. Kiểu thứ hai của người
trị liệu sẽ đi theo bệnh nhân: người đó sẽ lắng nghe bệnh nhân, người đó sẽ cố
tìm ra nhu cầu của bệnh nhân là gì; người đó sẽ lắng nghe học sinh, nghe đệ tử.
Người đó sẽ nhìn bạn, và người đó sẽ giúp bạn từ đằng sau. Người đó sẽ không
bao giờ ở trước bạn; người đó sẽ đẩy thay vì kéo bạn.
Người đó sẽ không lái
bạn, người đó sẽ đơn giản thuyết phục bạn.
Kiểu thứ hai là tốt
hơn. Tất nhiên, nhiều người bị hấp dẫn tới kiểu thứ nhất và rất ít ngườu bị hấp
dẫn tới kiểu thứ hai.
Kiểu thứ ba Thầy tự
nhiên, người chữa lành tự nhiên: người đó không bao giờ lãnh đạo bạn, người đó
không bao giờ đi theo bạn, người đó đi cùng bạn. Người đó đơn giản cầm tay bạn;
người đó là bạn. Phật đã nói, 'Lần tới khi ta sẽ tới, tên ta sẽ là Maitreya, 'bạn'.'
Và điều đó rất có ý nghĩa.
Phật nói rằng trong đời
ông ấy như Phật Gautam, ông ấy đã quá lôi cuốn - đầy sức mạnh, năng lượng, elan,
tinh thần, tới mức ông ấy đã áp đảo mọi người. Mahavira nhiều tính phương pháp
hơn. Và Phật nói, 'Lần tới khi ta tới, tên ta sẽ là Maitreya.' 'Maitreya' nghĩa
là người bạn. Một cách rất biểu tượng ông ấy nói, 'Lần tới, ta sẽ đi cùng các
ông. Ta sẽ là người bạn. Ta sẽ không lãnh đạo trước các ông, ta sẽ không đẩy
các ông từ đằng sau, ta sẽ chỉ cầm tay các ông như người bạn.' Điều này là tự
nhiên, điều này là tốt nhất. Và điều này là khó tìm thấy nhất - vì bạn hấp dẫn,
bạn cảm thấy bị hấp dẫn hướng tới người lôi cuốn, người kì diệu, hay bạn trở
nên bị hấp dẫn hướng tới người có phương pháp.
Tự nhiên là tốt nhất
nhưng ít hấp dẫn nhất. Người đó rất đơn giản và bình thường. Người đó không có
lôi cuốn, người đó không làm sững sờ bạn. Và người đó không rất có tính phương
pháp, người đó không rất có tính công nghệ, người đó không rất khoa học; người
đó nhiều tính thơ ca, người đó nhiều hỗn độn hơn. Người đó là tự nhiên hơn, hỗn
độn như tự nhiên vậy.
Tôi là người tự
nhiên. Tôi không có lôi cuốn, và tôi không tin vào lôi cuốn. Tôi không tin vào
phương pháp - cho dù tôi dùng chúng, tôi không tin vào chúng.
Tôi là người tự
nhiên, rất bình thường. Tôi có thể bị mất hút trong đám đông và bạn sẽ không có
khả năng tìm thấy tôi. Cho nên tôi không lãnh đạo bạn, tôi đi cùng bạn. Tôi có
thể cầm tay bạn, tôi có thể là bạn của bạn.
Câu hỏi thứ ba:
Triết học của Karl Marx chủ trương xã hội phi giai cấp và xã hội
phi nhà nước. Ông ấy có chủ trương xã hội tôn giáo một cách gián tiếp không?
Trực tiếp hay gián tiếp,
ông ấy không đề xuất bất kì xã hội tôn giáo nào. Và cách ông ấy đề xuất là ông ấy
sẽ mang tới xã hội phi giai cấp này và xã hội phi nhà nước này, thực sự là ngớ
ngẩn. Ông ấy đề xuất qua bản thân nhà nước. Ông ấy nói, 'Đầu tiên nhà nước phải
trở thành rất chi phối - chuyên chính vô sản - và thế rồi một ngày nào đó, khi
chuyên chính vô sản đã thành công, thế thì nó sẽ tự khô héo đi.' Điều đó là vô
nghĩa.
Không ai đã bao giờ
muốn bỏ quyền lực. Một khi nó có đó trong tay bạn, không ai muốn bỏ nó. Nhà nước
sẽ trở nên ngày càng mạnh hơn. Xã hội có thể biến mất, nhưng nhà nước sẽ không
biến mất. Đó là điều đã xảy ra ở Nga, đó là điều đang xảy ra ở Trung Quốc. Mọi
dự báo của Marx đều đã chứng tỏ là sai.
Qua độc tài, không xã
hội nào có thể đi tới điểm mà nhà nước biến mất: nhà nước sẽ trở nên ngày càng
mạnh hơn. Và những người sẽ kiểm soát nhà nước, họ sẽ không bao giờ thích, họ
đã không bao giờ thích... ai thích mất quyền lực của mình? Quyền lực làm biến
chất, và biến chất tuyệt đối.
Karl Marx không có hiểu
biết về tâm lí con người, về tâm trí con người. Ông ấy đã quen biết với cấu
trúc xã hội, với cấu trúc kinh tế của xã hội, nhưng ông ấy đã hoàn toàn vô nhận
biết về cấu trúc con người, về linh hồn - và điều đó là quan trọng hơn, vì
chung cuộc điều đó là nhân tố quyết định. Ông ấy đã không nhận biết rằng Stalin
sẽ được sinh ra; ông ấy đã không nhận biết rằng Mao sẽ được sinh ra. Thực ra,
ông ấy đã nghĩ Mĩ chắc sẽ trở thành nước cộng sản đầu tiên, và ông ấy đã sai.
Ông ấy đã nghĩ rằng chính xã hội sung túc, xã hội tư bản, sẽ trở thành cộng sản
đầu tiên, vì ông ấy nghĩ rằng trong xã hội tư bản sự khác biệt giữa người nghèo
và người giầu sẽ là quá lớn, và người nghèo sẽ nổi dậy.
Nhưng chính điều ngược
lại đã xảy ra - hai nước rất nghèo đã trở thành nước cộng sản; Nga và Trung Quốc,
cả hai đều rất nghèo. Ông ấy đã thậm chí không thể hình dung được nước Nga đã
bao giờ trở thành nước cộng sản. Tại sao không phải là Mĩ?
Thực ra, quá trình
này đã là khác toàn bộ. Khác biệt giữa người nghèo và người giầu đã không tăng
lên. Thực ra, họ đã lại gần hơn: người nghèo đã trở nên ngày càng giầu hơn ở
Mĩ. Khác biệt này tồn tại, nhưng khác biệt này là ít hơn trước đã từng có. Và
xã hội Mĩ liên tục tiến bộ, một ngày nào đó Mĩ sẽ trở thành xã hội phi giai cấp
đầu tiên có thể có.
Và khác biệt này đang
biến mất một cách tự nhiên: sung túc tăng lên, giầu có tăng lên. Bạn tham thế về
giầu có vì họ sợ thế. Khi mọi thứ là quá nhiều ở đó, ai bận tâm tích trữ? Để
làm gì? Bạn không tích trữ không khí, bạn không tích trữ nước. Nếu mọi thứ khác
trở thành sẵn có thể, việc tích trữ sẽ biến mất. Đó là tiến trình tự nhiên duy
nhất.
Chủ nghĩa cộng sản rồi
sẽ chết yểu; nó là phi tự nhiên. Chủ nghĩa tư bản là tự nhiên. Và chủ nghĩa tư
bản sẽ biến mất một cách tự nhiên - và điều đó sẽ là cái chết tự nhiên, như con
người chết trên giường chết, từ từ, từ từ, từ từ. Nó sẽ không là ngẫu nhiên.
Thanh niên chết bất thần vì đau tim hay tai nạn xe hơi... Một cách tự nhiên chết
là tốt, vì từ chết tự nhiên, sống được sinh ra.
Tôi không thiên về
Karl Marx. Và, thực ra, bản thân ông ấy không phải là người vô sản. Bản thân
ông ấy đã rất giầu. Thực ra, nghĩ về chủ nghĩa cộng sản người ta cần rất giầu.
Ông ấy vẫn còn ở trong Thư viện Anh cả đời ông ấy, ngồi, chẳng làm gì, chỉ đọc
sách.
Tôi đã nghe một giai
thoại:
Trong cõi trời cộng sản,
người tương đương với thánh Peter chặn một người xin vào ở cổng và hỏi, 'Ông có
tư cách gì mà vào đây?'
'Thế này,' người này
nói, 'trên trái đất bố tôi đã là nhà công nghiệp giầu có. Mẹ tôi xuất thân từ một
gia đình thương nhân hạng trung. Tôi sao? Tôi đã là nhà văn thành công, và
chung cuộc, sau khi thừa kế số tiền lớn, tôi đã cưới một nữ nam tước.'
Người gác cổng nghẹn
thở với cơn thịnh nộ tới lúc này. 'Và những điều đó là lời của ông để vào thiên
đường cộng sản sao?' ông ta nói líu lưỡi.
Một cách nhu mì người
xin vào nói thêm một câu nữa. 'Tôi nghĩ tên tôi có thể giúp được tôi,' ông ta
thì thào. 'Đó là Karl Marx.'
Marx không phải là
người nghèo. Ngay cả để mơ về chủ nghĩa cộng sản, ngay cả để mơ về cõi không tưởng,
người ta cần là người giầu. Chủ nghĩa cộng sản là sản phẩm phụ không phải của
suy nghĩ của người vô sản mà của người tầng lớp trung lưu. Người tầng lớp trung
lưu là người bị thất vọng nhất thế giới. Người nghèo không thất vọng; người đó
nghèo và được lắng đọng. Và người giầu không thất vọng; người đó giầu và được lắng
đọng. Người trung lưu rất thất vọng: người đó muốn là giầu, và người đó hi vọng
người đó có thể giầu, và người đó cảm thấy nghèo như cái bóng đi theo mình. Người
đó ở trong quên lãng.
Người tầng lớp trung
lưu là người nguy hiểm nhất. Người đó là cả nghèo và giầu, và người đó không muốn
nghèo và người đó muốn giầu. Nếu người đó không thể giầu thế thì người đó muốn
phá huỷ toàn thể xã hội. Người đó muốn không ai là giầu.
Và phép màu đang xảy
ra ở Mĩ: người giầu đang biến mất và người nghèo đang biến mất, và tầng lớp
trung lưu đang trở nên ngày một lớn hơn. Chính cái đối lập đã là ý tưởng của
Marx: ông ấy đã nghĩ rằng người giầu sẽ trở nên giầu hơn và người nghèo sẽ trở
nên nghèo hơn, và dần dần tầng lớp trung lưu sẽ bị chia thành hai phần: những
người đã giầu sẽ chuyển thành người giầu, và những người đã nghèo sẽ rơi xuống
trong nghèo nàn, và xã hội sẽ tuyệt đối bị chia thành hai - người nghèo và người
giầu - và điều không tránh khỏi sẽ là khoảnh khắc của cách mạng. Điều này đã
không xảy ra, điều này không xảy ra.
Chính điều ngược lại
đang xảy ra: giai cấp trung lưu đang trở nên ngày càng lớn hơn. Người giầu là một
cực đoan của tầng lớp trung lưu bây giờ. Tầng lớp trung lưu là giai cấp duy nhất
bây giờ. Và tầng lớp trung lưu này sẽ trở thành xã hội phi giai cấp sớm hay muộn.
Xã hội phi giai cấp sẽ tới, nhưng không qua Marx - nó sẽ đi tới qua quá trình tự
nhiên toàn bộ của chủ nghĩa tư bản, không qua chủ nghĩa cộng sản.
Và Marx chắc chắn
không phải là người tôn giáo chút nào; ông ấy đã chống lại tôn giáo. Ông ấy đã
không thực sự quen thuộc với tôn giáo. Mọi điều ông ấy biết đã là Do Thái giáo
và Ki tô giáo. Ông ấy là người Do Thái, Freud là người Do Thái, Einstein là người
Do Thái - cái tên lớn của thế giới hiện đại toàn là người Do Thái. Người Do
Thái đã khổ nhiều thế; họ rất giận. Và giận của họ tới trong nhiều quần áo thế.
Giận của Marx về chống lại xã hội thực ra là giận của người Do Thái chống lại
thế giới phi Do Thái. Và ông ấy chỉ biết Do Thái giáo và Ki tô giáo, là những
tôn giáo không rất phát triển. Giá mà ông ấy biết bất kì cái gì về Phật giáo
hay Patanjali hay Upanishads, ý tưởng của ông ấy chắc đã là khác rồi. Nhưng ông
ấy đã không nhận biết, và ông ấy thực ra đã không cố trở nên nhận biết. Hiểu biết
tôn giáo của ông ấy là rất nghèo nàn; ông ấy là nhà kinh tế.
Tôn giáo chẳng liên
quan gì tới xã hội; đó là lí do tại sao ông ấy đã chống lại tôn giáo. Tôn giáo
có tính cá nhân, và ông ấy là người xã hội thượng hạng. Đó là lí do tại sao ông
ấy đã nói, 'Tôn giáo là thuốc phiện cho đám đông.' Tôn giáo là tính cá nhân vì
tôn giáo tin vào tự do cá nhân. Và việc nở hoa của điều tối thượng sẽ là có
tính cá nhân, không phải tính xã hội. Bạn không bao giờ nghe nói về xã hội trở
thành có tính tôn giáo, chỉ các cá nhân mới trở thành - một Phật ở đây, một
Jesus ở kia, một Moses ở đâu đó khác - chỉ các cá nhân đã trở thành có tính tôn
giáo.
Xã hội không bao giờ
có thể trở thành có tính tôn giáo, vì tâm trí số đông không thể đi tới việc nở
hoa đó. Có tính tôn giáo là sự trưởng thành vô cùng. Nó là việc mở ra tiềm năng
tối thượng của bạn; nó không thể là của số đông. Bạn đừng nghĩ rằng một ngày
nào đó số đông sẽ trở thành các hoạ sĩ lớn như Picasso hay Leonardo da Vinci. Bạn
đừng nghĩ rằng một ngày nào đó số đông sẽ trở thành các nhạc sĩ lớn như
Beethoven, Mozart hay Wagner. Bạn đừng nghĩ rằng số đông một ngày nào đó sẽ trở
thành các nhà toán học lớn như Einstein, Planck, Eddington. Không, bạn đừng
nghĩ theo cách đó. Thế thì tại sao bạn nghĩ Jesus, Moses, Mahavir, Mohammed? Điều
đó là không thể được.
Số đông sống theo
cách rất tối tăm; nó sống trong rừng rậm. Chỉ rất ít người thoát khỏi rừng rậm
và đi vào rừng, và chỉ rất ít trong những người đó, người đi vào rừng, mới đi
vào vườn. Nhiều người hơn trở nên bị quá gắn bó với rừng và họ vẫn còn ở đó. Để
nói điều đó theo cách này: chỉ một người trong một triệu người thoát từ rừng rậm
và đạt tới rừng. Trong một triệu người trong rừng, một người thoát khỏi rừng và
đạt tới vườn. Và trong một triệu người trong vườn, một người thoát khỏi vườn và
đạt tới nhà. Đó đã là tỉ lệ cho tới giờ, và điều này sẽ là tỉ lệ.
Tôn giáo chỉ dành cho
vài người. Điều đó gây tổn thương, vì bạn muốn tôn giáo là cho mọi người. Nhưng
tôi không thể giúp được điều đó. Nếu âm nhạc không thể dành cho mọi người, và hội
hoạ không thể dành cho mọi người, và nhảy múa không thể dành cho mọi người, thế
thì - tôi xin lỗi, tôi không thể giúp được điều đó - tôn giáo nữa không thể
dành cho mọi người. Và trong thế giới cộng sản tôn giáo trở thành không thể được,
vì họ không cho phép tính cá nhân, họ không cho phép tự do, họ không cho phép bất
kì người nào được khác với số đông.
Tôi đã nghe một câu
chuyện Nga Xô viết:
Một người bị cơn co
thắt mạnh trong dạ dầy và được giảm nhẹ khi thấy một cấu trúc mầu trắng hiện đại
dựng đứng với chủ định trong thị trấn quê nhà của anh ta. Khi đi vào toàn nhà
này, bản thân anh ta thấy trong một phòng có hai cửa. Một cửa có ghi 'nam', cửa
kia 'nữ'. Một cách tự nhiên, anh ta đi vào cửa có chữ 'nam'.
Anh ta thấy bản thân
mình ở trong một phòng với hai cửa. Một cửa có đánh dấu 'Trên hai mốt', cửa kia
'dưới hai mốt'. Vì anh ta đã năm mươi hai, anh ta đi vào cửa có đánh dấu 'trên
hai mốt'.
Anh ta thấy bản thân
mình ở trong phòng khác với hai cửa. Một cửa có đánh dấu 'ốm nặng', cửa kia
'khó chịu nhỏ'. Vì anh ta thấy đau gấp đôi vào lúc này, anh ta loạng choạng đi
qua cửa có đánh dấu 'ốm nặng'.
Anh ta lại thấy bản
thân mình trong một phòng có hai cửa. Một cửa được đánh dấu 'người không tin và
vô thượng đế', cửa kia được đánh dấu 'người tin vào Thượng đế, người tôn giáo'.
Vì anh ta là người tin vào Thượng đế, anh ta đi qua cửa được đánh dấu cho người
tôn giáo và thấy bản thân mình ở trên phố.
Trong thế giới cộng sản
người tôn giáo không thể tồn tại được; người đó không được phép. Thế giới cộng
sản tin vào vào xã hội, vào chi phối tuyệt đối của xã hội. Cá nhân bị coi là
nguy hiểm. Bất kì người nào cố là cá nhân đều bị để ý như kẻ thù: 'Người ta phải
không cố là cá nhân, người ta phải đi theo đám đông, người ta phải ở trong đám
đông, người ta phải không cố theo cách và phong cách riêng của người ta' - ngay
cả về những thứ bình thường. Nếu bạn đi tới Trung Quốc, Nga, ngay cả trong
trang phục bạn sẽ thấy sự cùng kiểu, ngay cả trong xe hơi bạn sẽ thấy sự cùng
kiểu. Mọi thứ phải là giống như mọi người khác. Không ai được thử; ngay cả
trong trang phục, không ai được thử bất kì phong cách cá nhân nào, vì điều đó
là nguy hiểm. Chủ nghĩa cộng sản không cho phép cá nhân; làm sao nó có thể cho
phép tôn giáo? Điều đó là không thể được.
Tôn giáo là việc nở
hoa cá nhân. Tôn giáo có thể tồn tại chỉ trong xã hội có tính cá nhân nơi tự do
là được phép, nơi tự do là bản thân người ta là được phép, nơi không ai can thiệp
vào bạn, nơi bạn được bỏ lại một mình, với bản thân bạn, nơi bạn có thể làm bất
kì cái gì mà bạn muốn làm cho bản thân bạn. Xã hội chỉ can thiệp khi bạn bắt đầu
can thiệp vào cuộc sống của người khác. Bằng không thì không can thiệp. Nếu bạn
không gây hại, không ai sẽ can thiệp vào bạn.
Điều này là có thể chỉ
trong nước dân chủ; điều này là có thể chỉ trong nước tư bản. Tôi ủng hộ tất cả
cho tư bản và tôi ủng hộ tất cả cho dân chủ. Tốt hơn cả là nghèo nhưng vẫn còn
dân chủ.
Tốt hơn cả là vẫn còn
vô giáo dục nhưng vẫn còn dân chủ. Bằng không dạ dầy của bạn sẽ đầy, nhưng tinh
thần của bạn sẽ trống rỗng; bằng không thân thể của bạn sẽ được nuôi dưỡng, nhưng
hồn của bạn sẽ chết, chết đói.
Và phần thứ hai của
câu hỏi này: 'Nếu không, kiểu trật tự xã hội nào nên có đó nơi con người sẽ
không bị bóc lột bởi con người? '
Chừng nào chưa có nhiều
hơn là đủ, con người bao giờ cũng sẽ bị bóc lột bởi con người; vấn đề không phải
là chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản. Chừng nào chưa
có nhiều hơn đủ, con người sẽ bị bóc lột. Cho nên tạo ra nhiều hơn đủ đi, có
tính sáng tạo đi, dùng mọi khả năng để sáng tạo nhiều hơn: đó là điều đầu tiên.
Và điều thứ hai: sống trong hiện tại, không nghĩ tới ngày mai. Nghe Jesus; ông ấy
nói: Nhìn các bông hoa loa kèn trên cánh đồng. Chúng không chao đảo, chúng
không lắc lư, chúng không cố sức, chúng không nghĩ về ngày mai - vậy mà chúng đẹp
thế. Ngay cả Solomon, được mặc quần áo đẹp trong toàn thể vinh quang của ông ấy,
đã không đẹp thế.
Sống trong hiện tại
đi. Tương lai tạo ra tham, tham tạo ra tích trữ, tích trữ tạo ra nghèo nàn. Duy
nhất xã hội tôn giáo... và khi tôi nói 'xã hội tôn giáo' tôi không ngụ ý trật tự
xã hội tôn giáo. Với 'xã hội tôn giáo' tôi ngụ ý nơi nhiều, nhiều người có tính
tôn giáo, ít nhất phấn đấu hướng tới tôn giáo; nơi nhiều người đang thiền, cầu
nguyện; nơi nhiều người đang yêu, chăm sóc, nơi nhiều người có từ bi; nơi nhiều
người được tự do khỏi tham và tích trữ; nơi nhiều người tận hưởng cuộc sống
trong hiện tại, vui mừng trong việc chơi trong hiện tại và không bận tâm về khoảnh
khắc này. Trong xã hội đó việc bóc lột sẽ biến mất. Bằng không bóc lột sẽ không
biến mất.
Bạn có thể thay đổi cấu
trúc: ở Nga những kẻ bóc lột cũ đã biến mất nhưng những kẻ bóc lột mới đã tới -
và những kẻ mới là nguy hiểm hơn, vì họ được trang bị về công nghệ nhiều hơn kẻ
bóc lột cũ. Người giầu đã có đó, họ bóc lột; Sa hoàng có đó, ông ta đã bóc lột
- nhưng không cái gì so sánh được với Stalin và nhóm người của ông ấy. Họ được
trang bị nhiều hơn. Sa hoàng đã không được trang bị tốt thế; đó là lí do tại
sao cách mạng đã là có thể. Bây giờ không có khả năng nào của cách mạng ở Nga -
không thể được. Bạn thậm chí không thể tưởng tượng được bất kì cách mạng nào,
vì nắm giữ của nhà nước là lớn thế, và nhà nước được trang bị công nghệ thế để
chống lại cá nhân, điều không cá nhân nào thậm chí có thể nghĩ. Không thể nói về
cách mạng. Không thể ngay cả nghĩ, vì họ nói rằng tai vách mạch rừng. Bạn thậm
chí không thể nói thẳng với vợ bạn, vì ai biết? Cô ấy có thể là kẻ chỉ điểm. Bạn
không thể nói với con cái riêng của bạn, trẻ con riêng nhà bạn, vì nó thuộc vào
Đoàn thanh niên cộng sản. Và họ đang dạy người của họ là yêu nước nhiều hơn, là
nhiều hơn vì đất nước, chống lại gia đình. Xã hội là mục đích, không phải gia
đình. Gia đình phải bị làm biến chất hoàn toàn.
Và không còn bất kì đảng
phái nào, không cón các ý thức hệ sẵn có: không có khả năng xuất bản sách hay
báo. Làm sao bạn có thể nghĩ rằng ở Nga cách mạng có thể xảy ra? Không, nhà nước
là mạnh thế, nó sẽ nghiền nát bất kì ai trong bùn.
Và bây giời họ đang
làm gì? - đầu tiên họ thường giết kẻ thù của họ; giờ họ không giết. Giờ có có
vũ khí giết người hơn: họ tẩy não, họ không giết. Họ đơn giản cho sốc điện, sốc
insulin, và họ tẩy não người này. Và người này trở về nhà từ bệnh viện, không từ
nhà tù, hoàn toàn ngốc, ngu. Người đó đã quên hết mọi điều người đó biết; người
đó thậm chí không thể nghĩ, người đó không gắn hai câu với nhau một cách logic.
Người đó phải học từ ABC lần nữa. Bây giờ làm sao bạn có thể nghĩ về cách mạng.
Sớm hay muộn, trong
nước cộng sản, điều đó sẽ xảy ra - vì trẻ em phải được sinh ra ở bệnh viện.
Ngay lập tức sau khi đứa trẻ được sinh ra, họ sẽ đặt điện cực vào trong đầu; điều
đó sẽ làm. Thế rồi chính phủ bao giờ cũng sẽ biết ngay cả điều bạn đang nghĩ -
bây giờ bạn nói gì, điều đó không là vấn đề. Thế thì đồn cảnh sát sẽ biết ai
đang nghĩ ý tưởng sai nào đó: con số của bạn hiện lên trong đồn cảnh sát. Đột
nhiên đèn sẽ sáng tới số: ba mươi mốt? - bị bắt. Bây giờ điều đó là có thể, có
thể về mặt công nghệ.
Và nhớ, con người là
nguy hiểm thế: bất kì cái gì trở thành có thể về mặt công nghệ, con người phải
thử nó. Con người bị ám ảnh, con người không thể cưỡng lại cám dỗ này.
Câu hỏi cuối cùng:
Tôi cảm thấy mặc cảm rằng tôi có thể tới với thầy và người nghèo
không thể tới được.
Đừng cảm thấy mặc cảm;
xin dừng việc tới. Để tôi kể cho bạn một giai thoại.
Martha sắp chết. Với
hơi thở cuối cùng cô ấy quay sang Abe và hỏi, 'Abe trước khi em chết, làm tình
với em chỉ một lần nữa thôi.'
Abe trả lời, 'Làm sao
em có thể yêu cầu anh làm điều như vậy được? Anh sẽ giết chết em!'
Martha cầu xin, 'Mọi
người được quyền thoả mãn yêu cầu cuối cùng trước khi họ chết. Anh phải ban cho
em ước nguyện cuối cùng này.'
Abe đáp, 'Được.' Anh
ta lên giường và làm tình với cô ấy. Ngay khi anh ta kết thúc cô ấy nhảy ra khỏi
giường hoàn toàn được chữa khỏi, và chạy xuống cầu thang và bắt đầu đập gà và
la hét trong phòng khách nơi con cô ấy đang ngồi, rằng bữa tối sẽ sẵn sàng
trong một giờ.
Trẻ con sững sờ, và
chạy lên cầu thang tới bố chúng, người đang ngồi trong ghế và khóc. Chúng nói,
'Bố ơi, sao bố khóc? Phép màu đấy! Mẹ hoàn toàn được chữa khỏi!'
Anh ta đáp, 'Bố biết,
nhưng khi bố nghĩ điều bố có thể đã làm cho Eleanor Roosevelt.'
Hiểu không? 'Bố biết,
nhưng khi bố nghĩ điều bố có thể đã làm cho Eleanor Roosevelt; đó là lí do tại
sao bố khóc.'
Đừng nghĩ về Eleanor
Roosevelts, và đừng khóc một cách không cần thiết. Nếu bạn cảm thấy xấu hổ, đừng
tới - vì cảm thấy mặc cảm là rất tệ, và tôi không muốn bất kì người nào cảm thấy
mặc cảm. Thế thì đi và phục vụ người nghèo đi. Nếu bạn muốn tới đây, quên toàn
thế giới đi. Nếu bạn nghĩ về thế giới bạn không thể nghe tôi được, bạn không thể
hiểu tôi được.
Cuộc sống của bạn ngắn
ngủi... cuộc sống của bạn thực sự rất ngắn: bạn không biết liệu bạn sẽ tồn tại
khoảnh khắc tiếp hay không. Và đừng cảm thấy tiếc thương cho người nghèo, vì
ngay chỗ đầu tiên, người nghèo có thể không sẵn sàng tới. Vì tôi biết người
nghèo: tôi đã từng du hành trên đất nước này, tôi đã được sinh ra ở đất nước
này; tôi biết người nghèo. Đôi khi họ tới tôi, họ tới vì những lí do khác. Họ tới:
con trai họ không kiếm được việc làm, cho nên, 'Osho ơi, ban phúc đi.' Họ tới
vì vợ họ ốm; họ tới vì ai đó không có con, 'Cho nên ban phúc đi.' Họ tới vì các
lí do khác, không vì lí do tôn giáo. Người nghèo không thể có lí do tôn giáo thực
sự; người đó đang đói. Vấn đề của người đó không phải là có tính tôn giáo, vấn
đề của người đó có tính vật lí. Chỉ người giầu có thể có vấn đề tôn giáo. Tôn
giáo là sản phẩm phụ của sung túc; nó là thứ xa hoa.
Khi nhu cầu thân thể
của bạn được đáp ứng, thế thì vấn đề tâm lí nảy sinh. Người nghèo không bao giờ
có vấn đề tâm lí; bạn sẽ không bao giờ thấy người đó đi tới nhà phân tâm. Bạn
đã bao giờ thấy người nghèo đi chưa? Người đó không có vấn đề tâm lí. Khi nhu cầu
thân thể của bạn hoàn toàn được đáp ứng, vấn đề của bạn dịch chuyển: chúng lấy
hình tướng cao hơn, chúng chuyển lên độ cao cao hơn - chúng bắt đầu trở thành
tâm lí.
Người Ấn Độ rất hạnh
phúc rằng họ không có nhiều vấn đề tâm lí, và rằng họ không cần nhiền nhà tâm
thần ở Ấn Độ. Và họ rất phân vân tại sao Mĩ có nhiều nhà tâm thần thế. Và họ cảm
thấy rất tiếc cho Mĩ, vì họ nghĩ, 'Những người đáng thương. Họ khổ về những bệnh
tinh thần nhiều thế.' Họ không hiểu rằng ốm tinh thần là phúc lành; nó đơn giả
chỉ ra rằng nhu cầu vật lí được đáp ứng. Bây giờ người ta có thể đảm đương là ốm
tinh thần.
Khi nhu cầu tinh thần
được đáp ứng, thế thì nhu cầu tôn giáo, nhu cầu tâm linh, nảy sinh - không bao
giờ trước đó.
Cho nên nếu bạn cảm
thấy buồn tiếc cho bất kì người nghèo nào, đừng cảm thấy buồn tiếc. Dường như bạn
thấy một đứa bé đang chơi và bạn bắt đầu cảm thấy, 'Đứa bé đáng thương này; nó
còn chưa thể tận hưởng dục.' Bây giờ cảm thấy mặc cảm là dành cho bạn, và nếu bạn
muốn cảm thấy mặc cảm, bạn là tự do cảm. Và nếu bạn muốn dừng làm tình với người
đàn bà của bạn hay người đàn ông của bạn, thì dừng đi - vì những đứa trẻ nhỏ
này... chúng chưa thể làm tình.
Chúng sẽ làm tình vào
thời riêng của chúng. Mọi người có việc chín muồi riêng của mình. Và nếu người
nghèo thực sự đã trở nên quan tâm tới tôn giáo, người đó sẽ tìm ra cách tới
tôi. Không ai có thể ngăn cản được người đó. Có nhiều người nghèo ở đây: họ sẽ
tìm ra cách, họ sẽ làm mọi thứ họ có thể làm và họ sẽ tới. Sự mãnh liệt của họ
sẽ đem họ tới. Thương hại của bạn sẽ không giúp cho họ.
Chỉ một điều có thể xảy
ra từ thương hại của bạn: bạn có thể bỏ lỡ tôi.
Một lần một doanh
nhân Do Thái đi câu cá ở hồ thì anh ta kéo được con cá thuộc kiểu anh ta chưa
bao giờ thấy trước đây. Nó có vảy vàng và vây bạc lập loè và loé sáng khi nó quẫy
nước ở đáy thuyền anh ta. Đột nhiên, con cá làm cho doanh nhân giật mình bằng
việc nói!
'Xin ông vui lòng,'
con cá cầu khẩn, 'ném tôi trở lại trong hồ và tôi sẽ ban cho ông ba điều ước.'
Doanh nhân cân nhắc cẩn
thận và thế rồi nói, 'Cho năm lời ước đi và chúng ta đạt được mặc cả hời.'
'Tôi chỉ có thể ban
được ba điều ước thôi,' con cá hổn hển.
'Bốn rưỡi,' doanh
nhân đề nghị.
'Ba,' con cá nói vừa
đủ rõ ràng.
'Được, được,' doanh
nhân nói. 'Chúng ta nhân nhượng bốn điều ước. Thế được không?'
Nhưng lần này con cá
không đáp lại chút nào. Nó nằm chết ở đáy thuyền.
Cuộc sống rất ngắn.
Tôi sẽ không ở đây mãi mãi. Dùng cơ hội mà đang sẵn có cho bạn đi, và dùng nó
nhiều như bạn có thể dùng. Để ngọn lửa bên trong của bạn cháy sáng, và thế thì
bạn có thể đi tới người nghèo và giúp họ nữa. Điều đó sẽ là sự giúp đỡ nào đó.
Ngay bây giờ bạn sẽ cảm thấy mặc cảm: họ sẽ không được cái gì thừ mặc cảm của bạn
đâu; bạn sẽ bỏ lỡ, chắc chắn.
Câu hỏi rất, rất cuối cùng:
Santa Claus có chứng ngộ không?
Nếu ông ấy không, thế thì ai sẽ chứng ngộ?
Chứng ngộ là trò đùa.
Nó không phải là thứ nghiêm chỉnh. Santa Claus là Phật, là Christ. Santa Claus
là khôi hài, và chứng ngộ là khôi hài. Nó chẳng là cái gì nghiêm chỉnh: nó là
niềm vui, nó là trò vui, nó là vui mừng.
Xem Chương 5 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá