Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô
Ngã
Con Đường Của Thiền - Osho
Chương 6. Thân và hồn: khoa học và tôn giáo
Các bạn yêu mến của
tôi,
Có một số câu hỏi -
thực ra, có nhiều câu hỏi. Tôi sẽ cố cho câu trả lời được tổ hợp cho tất cả
chúng. Tôi đã chia chúng thành các phân loại.
Câu hỏi thứ nhất là:
Tôn giáo có chỗ nào trong thời đại khoa học? Và tôn giáo hữu dụng gì trong đời
sống quốc gia và xã hội?
Khoa học là hình tướng
của tri thức, cái đi tìm sức mạnh bên trong, ẩn kín trong vật chất. Tôn giáo là
hình tướng của tri thức, cái đi tìm sức mạnh bên trong, ẩn kín trong tâm thức.
Không có xung đột giữa tôn giáo và khoa học; thực ra chúng là bù lẫn cho nhau.
Trong thời đại chỉ có
khoa học, sẽ có nhiều tiện nghi hơn, nhưng sẽ không có nhiều hạnh phúc hơn.
Trong thời đại chỉ có tôn giáo một số người sẽ biết tới hạnh phúc, nhưng phần lớn
mọi người sẽ không có tiện nghi. Khoa học cung cấp các tiện nghi, tôn giáo mang
tới an bình. Nếu không có tiện nghi, rất ít người có thể biết an bình. Nếu
không có an bình, thế thì nhiều người có thể có được tiện nghi nhưng họ sẽ
không biết cách tận hưởng chúng.
Mãi cho tới giờ mọi nền
văn minh mà con người đã cho sinh thành đều không đầy đủ, manh mún. Văn hoá mà
phương Đông đã cho sinh thành ra phụ thuộc thuần tuý vào tôn giáo. Nó đã không quan
tâm tới khoa học. Xem như kết quả, phương Đông đã thất bại; nó đã trở thành suy
nhược và tàn tạ. Văn hoá mà phương Tây cho sinh thành là ở cực đoan kia: nó dựa
trên khoa học và nó chẳng liên quan gì tới tôn giáo. Xem như kết quả, phương
Tây đã chiến thắng và đã tích luỹ của cải, thịnh vượng và tiện nghi - nhưng nó
đã đánh mất hồn của nó.
Văn hoá sẽ nảy sinh
trong tương lai, nếu nó thực sự là tiến hoá của nhân loại, sẽ là cân bằng của
khoa học và tôn giáo. Văn hoá này sẽ là sự tổng hợp của tôn giáo và khoa học.
Nó sẽ không là chỉ tôn giáo hay chỉ khoa học: nó sẽ là hoặc tôn giáo có tính
khoa học hoặc khoa học có tính tôn giáo.
Cho tới giờ, cả hai
thực nghiệm này đã là thất bại. Thực nghiệm phương Đông đã thất bại và thực
nghiệm phương Tây cũng đã thất bại. Nhưng bây giờ chúng ta có cơ hội để tạo ra
một thực nghiệm vũ trụ mà không là của phương Đông không là của phương Tây,
trong đó cả tôn giáo và khoa học được tổ hợp lại.
Cho nên tôi nói với bạn
rằng không có xung đột giữa tôn giáo và khoa học, theo cùng cách như không có
xung đột giữa thân và hồn. Bất kì người nào chỉ sống ở mức độ của thân sẽ làm mất
hồn của người đó, và ai đó cố sống chỉ trong chiều tâm linh cũng sẽ không có khả
năng sống đúng vì người đó sẽ mất tiếp xúc với thân thể của mình.
Cũng như cuộc sống
con người là sự cân bằng, việc tổng hợp của thân và hồn, theo cùng cách văn hoá
đầy đủ cũng sẽ là cân bằng, việc tổng hợp giữa khoa học và tôn giáo. Khoa học sẽ
là thân của nó, tôn giáo là hồn của nó.
Nhưng nếu ai đó hỏi
tôi rằng liệu chúng ta có phải chọn giữa tôn giáo và khoa học không, chúng ta sẽ
chọn cái gì? Thế thì tôi sẽ nói rằng chúng ta nên sẵn sàng chọn tôn giáo. Nếu
ai đó đề nghị tôi chọn giữa khoa học và tôn giáo vì phải đi qua một trong
chúng, tôi sẽ nói sẵn sàng chọn tôn giáo. Thà rằng là nghèo và thiếu tiện nghi
còn hơn đánh mất hồn con người.
Giá trị gì của tiện
nghi mà chúng ta phải trả phí bằng cái ngã? Và giá trị gì của của cải, cái lấy
đi từ chúng ta chính con người chúng ta? Trong thực tại, chúng không là tiện
nghi không là của cải.
Tôi sẽ kể cho bạn một
chuyện ngắn, nó bao giờ cũng là một trong những chuyện yêu thích của tôi.
Tôi đã nghe nói rằng
có thời một vua ở Hi Lạp bị ốm. Ông ấy ốm tới mức các lương y nói ông ấy sẽ
không sống, không có hi vọng nào. Thế là các thượng thư và những người yêu ông ấy
trở nên rất lo nghĩ và lo âu. Vừa lúc đó một ông fakir đi vào làng, và ai đó
nói, "Mọi người nói rằng nếu ngài có thể mời ông fakir và ông ấy ban phúc
lành, người ốm được chữa khỏi."
Họ đi kiếm ông fakir
và ông ấy tới. Khoảnh khắc ông ấy tới ông ấy nói với nhà vua, "Bệ hạ có
điên không? Đây là điều bệ hạ gọi là bệnh sao? Nó không phải là bệnh. Có cách
điều trị rất đơn giản cho nó."
Nhà vua, người đã nằm
trên giường nhiều tháng rồi, ngồi dậy và nói, "Điều trị gì? Ta tưởng ta bị
kết thúc rồi. Ta không có bất kì hi vọng nào để khoẻ hơn."
Ông fakir nói,
"Đó là việc điều trị rất dễ dàng. Mang tới áo choàng của một dân làng, người
là cả thành công và an bình, và nhà vua nên mặc áo này vào. Ông ấy sẽ trở nên mạnh
và khoẻ."
Các thượng thư chạy
đi... Có nhiều người thành công trong làng. Họ đi từ nhà nọ sang nhà kia nói,
"Chúng tôi cần áo choàng của người vừa cả thành công và an bình." Và
người thành công nói, "Nhưng chúng tôi bất hạnh... Áo choàng! - chúng tôi
có thể cho mạng sống của chúng tôi, nói gì tới áo choàng. Nếu nhà vua có thể được
cứu, chúng tôi sẵn sàng cho mọi thứ. Nhưng áo choàng của chúng tôi sẽ không có
tác dụng vì chúng tôi là thành công, nhưng chúng tôi không an bình."
Họ đi tới từng và mọi
người trong làng. Họ tìm cả này, và đến tối họ mất mọi hi vọng. Họ nhận ra rằng
sẽ khó mà cứu được nhà vua - cách chữa ở bên ngoài tầm với. Buổi sáng họ đã
nghĩ, "Cách chữa này sẽ rất dễ tìm ra," nhưng đến tối họ đã nhận ra,
"Cách chữa này rất khó, thực ra, không thể tìm ra." Họ đã tới mọi người
giầu.
Đến tối họ trở về, mệt
mỏi và buồn. Mặt trời đã lặn. Bên ngoài làng, gần con sông và ngồi cạnh tảng
đá, ai đó dang thổi sáo. Âm thanh của nó nhiều nhạc điệu và có những con sóng
phúc lạc nảy sinh từ nó tới mức một trong các thượng thư nói, "Chúng ta
hãy hỏi người cuối cùng này... có thể anh ta là an bình."
Họ đi tới anh ta và hỏi,
"Âm thanh tiếng sáo của anh, bài ca của anh có vẻ đầy phúc lạc và an bình
tới mức chúng tôi muốn hỏi anh cái gì đó. Nhà vua đang ốm và chúng tôi cần chiếc
áo khoác của người là cả an bình và thành công."
Người này nói,
"Tôi sẵn lòng cho cả đời tôi, nhưng nhìn kĩ lại đi... tôi không có áo
choàng." Họ nhìn kĩ lại, trời thì tối - người đang thổi sáo này là trần trụi.
Thế là nhà vua không
thể được cứu vì người an bình thì không thành công, và người thành công đã
không có an bình. Theo cùng cách này, thế giới này không thể được cứu vì các nền
văn hoá có di sản an bình không có thành công, và các nền văn hoá thành công thậm
chí không nghĩ tới an bình. Nhà vua chết.
Nhân loại cũng sẽ chết.
Cách điều trị mà nhân loại cần là hệt như điều nhà vua cần. Chúng ta cần áo
choàng và chúng ta cũng cần an bình. Mãi cho tới giờ, ý thức hệ của chúng ta đã
là không đầy đủ. Mãi cho tới giờ chúng ta đã nghĩ về con người theo cách rất
không đầy đủ, và chúng ta chuyển tới các cực đoan theo thói quen. Bệnh lớn nhất
của tâm trí con người là xu hướng của nó đi tới các cực đoan.
Khổng Tử ở trong một
làng thì ai đó nói với ông ấy, "Có một người rất thông thái và chín chắn,
ông có muốn gặp ông ấy không?"
Khổng Tử nói,
"Trước hết để tôi hỏi ông tại sao ông gọi người đó là rất chín chắn, và thế
thì tôi sẽ dứt khoát tới gặp ông ấy."
Người này nói,
"Ông ấy chín chắn vì trước khi làm bất kì cái gì ông ấy nghĩ ba lần - ba lần!"
Khổng Tử nói,
"Người này là không chín chắn; ba lần là hơi quá nhiều. Một lần là quá ít,
hai lần là đủ. Người thông minh dừng ở giữa, người dốt nát đi sang các cực
đoan."
Điểm đầu tiên của dốt
nát là khi người ta nghĩ bản thân mình chỉ là thân thể. Điểm dốt nát thứ hai,
và với cùng mức độ, là khi người ta nghĩ bản thân mình chỉ là hồn. Tính cá nhân
của con người là sự tổng hợp: văn hoá của con người cũng sẽ là sự tổng hợp.
Và đó là lúc chúng ta
học bài học của chúng ta. Nghèo nàn và thất bại lịch sử của Ấn Độ, và trạng
thái bị áp bức của mọi nước phương Đông không phải là không có lí do, và lí do
là chủ nghĩa cực đoan tôn giáo. Và sự kiện rằng các nước phương Tây đã trở nên
nghèo từ bên trong cũng không phải là không có lí do: lí do là chủ nghĩa cực
đoan khoa học. Tương lai sẽ là đẹp nếu khoa học và tôn giáo được tích hợp. Ngần
này là rõ ràng: trong việc tích hợp tôn giáo và khoa học, tôn giáo sẽ là trung
tâm và khoa học là chu vi. Điều là rõ ràng rằng với việc tích hợp của khoa học
và tôn giáo, tôn giáo sẽ cần là thông minh và khoa học cần là người đi theo của
nó. Thân thể không thể là người chủ; khoa học cũng không thể là người chủ. Tôn
giáo sẽ là người chủ. Và thế thì chúng ta sẽ có khả năng tạo ra thế giới tốt
hơn.
Cho nên đừng hỏi về hữu
dụng của tôn giáo trong thời đại khoa học. Tôn giáo là việc dùng đích thực
trong thời đại khoa học vì khoa học là một cực đoan, và nó là cực đoan nguy hiểm.
Tôn giáo sẽ cho nó cân bằng, và điều đó sẽ có khả năng cứu con người khỏi nguy
hiểm của cực đoan đó.
Đây là lí do tại sao
khoảnh khắc của phục sinh tôn giáo trên khắp thế giới là rất gần trong tay. Điều
đó rất tự nhiên - và điều đó là tuyệt đối chắc chắn. Điều được cần ở đó là phục
sinh của tôn giáo, bằng không khoa học sẽ chỉ dẫn tới chết. Cho nên điều vô ích
là hỏi nhu cầu gì có đó cho tôn giáo trong thời đại khoa học: tôn giáo là được
cần nhất trong thời đại này của khoa học.
Liên quan tới điều
này, điều cũng đã được hỏi về tôn giáo hữu dụng gì trong đời sống quốc gia và
xã hội.
Tôi nghĩ rằng điều
tôi vừa mới nói có thể cũng đã trả lời cho câu hỏi này nữa, vì cái gì đó hữu dụng
cho cá nhân dứt khoát sẽ là hữu dụng cho quốc gia và xã hội như một toàn thể.
Sau rốt, quốc gia và xã hội là gì ngoại trừ tập hợp các cá nhân? Cho nên đừng bị
ảo tưởng rằng quốc gia có thể sống mà không có tôn giáo.
Điều không may này đã
xảy ra ở Ấn Độ. Chúng ta đã hiểu lầm những từ nào đó; chúng ta đã bắt đầu nói về
trạng thái phi tôn giáo. Chúng ta đáng phải nói về trạng thái ‘phi giáo phái’
nhưng chúng ta đã bắt đầu nói về trạng thái phi tôn giáo. Là trạng thái phi
giáo phái là một điều, và là điều khác toàn bộ với là trạng thái phi tôn giáo.
Bất kì người thông minh nào cũng sẽ thiên về trạng thái phi giáo phái, nhưng chỉ
người ngu có thể thiên về trạng thái phi tôn giáo.
Là phi giáo phái
nghĩa là chúng ta không quan tâm tới Jaina giáo, Hindu giáo, Phật giáo hay với
Mô ha mét giáo. Đây là điều phi giáo phái được ngụ ý. Nhưng là trạng thái phi
tôn giáo có nghĩa là chúng ta không quan tâm tới chân lí, tới bất bạo hành, tới
yêu hay từ bi. Không quốc gia nào có thể là phi tôn giáo theo nghĩa đó. Và nếu
nó là vậy, thế thì đó là không may của nó. Quốc gia phải làm cho tôn giáo là
chính sinh lực của nó và không phải là phi tôn giáo. Nhưng vâng, điều tuyệt đối
cần thiết là phi giáo phái.
Những người vô thần
trên thế giới đã không làm hại tôn giáo nhiều mấy; các nhà khoa học trên thế giới
đã không làm hại tôn giáo nhiều mấy. Những người đã làm hại tôn giáo nhất là những
người lãnh đạo tôn giáo. Họ là những người mà nhấn mạnh của họ ít vào tôn giáo
hơn là vào việc là người Jaina, nhấn mạnh của họ là ít vào tôn giáo hơn là vào
việc là người Hindu, nhấn mạnh của họ là ít vào tôn giáo hơn là vào việc là người
Mô ha mét giáo. Đây là những người đã tước đi thế giới của tôn giáo. Các giáo
phái mà đáng phải là thân thể của tôn giáo đã chứng tỏ là kẻ sát hại của nó.
Tôn giáo có giá trị lớn, nhưng giáo phái không có giá trị. Càng ít có giáo phái
và càng ít người bè phái càng tốt hơn.
Điều không thể được
cho bất kì giống nòi nào, bất kì quốc gia nào hay bất kì xã hội nào là liên tục
không có nền móng tôn giáo. Làm sao điều đó là có thể được? Chúng ta có thể
liên tục không có nền móng của yêu không? Làm sao một quốc gia có thể là quốc
gia mà không có nền móng của yêu hay chân lí? Hay một quốc gia có thể là quốc
gia mà không có nền móng của tính không ích kỉ, của vô sở hữu, của bất bạo hành
và bạo dạn? Đây là những phẩm chất cơ bản của hồn. Với việc thiếu vắng chúng
không có quốc gia, không có xã hội. Và nếu có quốc gia như vậy, xã hội như vậy,
thế thì bất kì người nào với thậm chí thông minh chút ít sẽ thấy rằng nó là đám
đông các robot. Sẽ không thể nào gọi nó là quốc gia được.
Quốc gia được hình
thành qua các mối quan hệ qua lại - quan hệ của tôi với bạn, và quan hệ mà bạn
có với hàng xóm của bạn. Mọi mối quan hệ qua lại này cùng nhau trở thành quốc gia.
Những mối quan hệ này càng trở nên dựa trên chân lí, trên yêu, trên bất bạo
hành và trên tính tôn giáo, hương thơm sẽ càng có đó trong cuộc sống của quốc
gia, ánh sáng càng có đó trong cuộc sống của quốc gia và bóng tối càng ít có
trong cuộc sống của quốc gia.
Cho nên tôi nói, cuộc
sống của quốc gia và xã hội chỉ có thể tồn tại nếu nó dựa trên tôn giáo. Bạn phải
cẩn thận về cách bạn dùng khái niệm này về chủ nghĩa thế tục; toàn thể quốc gia
phải cẩn thận. Dưới vỏ bọc của từ này có nguy hiểm lớn. Dưới vỏ bọc của từ này
bạn có thể tin rằng không có nhu cầu về tôn giáo. Nhưng tôn giáo là thứ duy nhất
con người cần. Mọi thứ khác là phụ và có thể bị bỏ đi. Tôn giáo là cái gì đó mà
không thể bỏ được.
Tôi nghĩ điều này sẽ
giúp bạn giải quyết câu hỏi của bạn.
Bạn khác đã hỏi:
Chúng ta phải thiền về cái gì?
Nói chung, với mọi ý
tưởng bao quanh về thiền, bạn hiểu thiền là ngụ ý thiền về cái gì đó: bạn sẽ
thiền về ai đó hay cái gì đó. Cho nên một cách tự nhiên câu hỏi này nảy sinh,
thiền về cái gì? - cầu nguyện với ai? sùng kính của bạn dâng cho ai? yêu ai?
Tôi đã bảo bạn sáng
nay rằng có một loại yêu nơi tôi sẽ hỏi bạn: bạn đang trong yêu với ai. Và có một
loại yêu khác nơi tôi sẽ hỏi liệu có yêu bên trong bạn hay không? Nó chẳng có
gì liên quan tới người khác.
Có hai trạng thái của
yêu: một trạng thái là trong đó yêu là quan hệ, và trạng thái kia trong đó yêu
là trạng thái. Trong yêu thứ nhất, nếu tôi bảo bạn rằng tôi cảm thấy yêu bạn sẽ
hỏi, "Với ai?" Và nếu tôi bảo bạn rằng không thành vấn đề với ai đó,
tôi chỉ cảm thấy yêu, bạn sẽ bị rối không hiểu được. Nhưng nó là trạng thái thứ
hai mà phải được hiểu.
Duy nhất người đơn giản
yêu mà không có nhu cầu về ai đó có đó, mới thực sự yêu. Ai đó, người yêu một
người đặc biệt, sẽ làm gì với mọi người khác? - người đó sẽ được rót đầy bởi
thù hằn hướng tới mọi người khác. Và ai đó, người thiền về một người đặc biệt,
sẽ làm gì với mọi người khác? - người đó sẽ được rót đầy bởi vô thức hướng tới
mọi người khác.
Thiền tôi đang nói tới
không phải là thiền về cái gì đó: thay vì thế, nó là trạng thái thiền. Cho nên
đây là điều tôi ngụ ý khi tôi nói với bạn về thiền như trạng thái. Thiền không
ngụ ý nhớ tới ai đó. Thiền ngụ ý bỏ mọi thứ có trong kí ức của người ta và đi tới
trạng thái nơi chỉ tâm thức còn lại, nơi chỉ nhận biết còn lại.
Nếu bạn thắp sáng chiếc
đèn và bỏ mọi vật bao quanh nó, chiếc đèn sẽ vẫn liên tục phát ra ánh sáng.
Theo cùng cách này, nếu bạn bỏ các đối thể khỏi tâm thức của bạn, mọi ý nghĩ, mọi
tưởng tượng, cái gì sẽ xảy ra? - duy nhất tâm thức sẽ còn lại. Trạng thái thuần
khiết đó của tâm thức là thiền. Bạn không thiền về ai đó. Thiền là trạng thái
nơi duy nhất tâm thức còn lại.
Khi chỉ tâm thức còn
lại không có đối thể, trạng thái đó được gọi là thiền. Tôi đang dùng từ 'thiền'
theo nghĩa này.
Điều bạn tập luyện
không phải là thiền theo nghĩa thực; nó chỉ là quan niệm. Nhưng thiền sẽ xảy ra
theo cách riêng của nó qua điều này. Cố hiểu rằng điều bạn đang tập luyện ban
đêm, các bài tập có bao gồm các luân xa, và trong buổi sáng, các bài tập bao gồm
hơi thở, tất cả là phương pháp, nó không phải là thiền. Qua phương pháp này một
khoảnh khắc sẽ tới khi hơi thở sẽ dường như đã biến mất. Qua phương pháp này một
khoảnh khắc sẽ tới khi thân thể dường như đã biến mất và ý nghĩ cũng đã biến mất.
Cái gì sẽ còn lại khi mọi thứ đã biến mất? Cái còn lại là thiền. Khi mọi thứ đã
biến mất, cái được bỏ lại đằng sau được gọi là thiền. Phương pháp là trên cái
gì đó; thiền không trên bất kì cái gì nói riêng. Cho nên điều chúng ta thực ra
đang làm và tập luyện phương pháp của các luân xa và của hơi thở.
Bạn sẽ hỏi, "Chẳng
phải là tốt hơn nếu chúng tôi tập luyện phương pháp bằng việc dùng ý tưởng về
Thượng đế sao? Chẳng phải là tốt hơn nếu chúng tôi tập luyện phương pháp với một
thần tượng sao?"
Điều đó sẽ là nguy hiểm.
Nó là nguy hiểm vì trong khi bạn tập luyện một phương pháp với một thần tượng,
trạng thái mà tôi đang gọi là thiền sẽ không xảy ra. Khi tập luyện phương pháp
với thần tượng, sẽ chỉ có thần tượng và không cái gì khác. Và phương pháp càng
đi sâu với thần tượng, thần tượng càng sẽ có đó và không cái gì khác.
Chuyện đã xảy ra cho
Ramakrishna. Ông ấy thường suy ngẫm về nữ thần mẹ Kali; đây đã là phương pháp của
ông ấy. Thế rồi dần dần, dần dần chuyện xảy ra là ông ấy bắt đầu thấy Kali bên
trong bản thân ông ấy. Nhắm mắt lại, thần tượng này trở thành sống động và ông ấy
trở nên rất phúc lạc, rất vui mừng. Nhưng một hôm một hiền nhân tới gặp ông ấy.
Hiền nhân này nói với ông ấy, "Điều ông đang làm chỉ là tưởng tượng, nó
không phải là gặp gỡ với Thượng đế."
Và Ramakrishna nói,
"Nó không phải là gặp Thượng đế sao? Nhưng tôi thấy Kali sống động!"
Hiền nhân đáp,
"Nhìn thấy Kali sống động không phải là gặp Thượng đế."
Ai đó thấy Kali, ai
đó thấy Jesus, ai đó thấy Krishna - tất cả những điều này là bịa đặt của tâm
trí. Thượng đế không có bất kì hình tướng thấy được nào. Điều thiêng liêng
không có mặt, bộ dạng, hình dáng. Khoảnh khắc tâm thức đi vào cái vô hình tướng,
nó đi vào điều thiêng liêng.
Bạn không đương đầu với
điều thiêng liêng, bạn trở thành một với nó. Không có đương đầu mặt đối mặt nơi
bạn đứng ở bên này và Thượng đế đứng ở bên kia. Một khoảnh khắc tới khi bạn hội
nhập với sự tồn tại vô hạn, chỉ như giọt nước rơi vào trong đại dương. Và kinh
nghiệm về khoảnh khắc đó là kinh nghiệm về điều thiêng liêng. Bạn không đương đầu
hay nhìn thấy Thượng đế, bạn trải nghiệm sự hội nhập với sự tồn tại hệt như giọt
nước cảm thấy khi nó rơi vào trong đại dương.
Cho nên hiền nhân này
bảo ông ấy, "Đây là sai lầm. Nó chỉ là tưởng tượng." Và ông ấy nói với
Ramakrishna, "Bây giờ, theo cùng cách như ông đã tạo ra thần tượng này bên
trong ông, chém nó thành hai mảnh. Giơ kiếm tưởng tượng lên và chém thần tượng
thành hai!"
Ramakrishna nói,
"Kiếm à? Tôi sẽ tìm thấy kiếm ở đâu?"
Hiền nhân nói,
"Cách ông tạo ra thần tượng là tưởng tượng. Ông cũng có thể tưởng tượng ra
kiếm và chém thần tượng này bằng nó. Để tưởng tượng phá huỷ tưởng tượng. Khi thần
thượng ngã xuống không cái gì sẽ còn lại đằng sau. Thế giới đã biến mất, và giờ
duy nhất thần tượng còn lại - buông bỏ điều đó nữa. Và khi chỉ còn lại không gian
trống rỗng ông sẽ đương đầu với điều thiêng liêng. Điều ông đang nghĩ là điều
thiêng liêng thì không phải là điều thiêng liêng đâu. Đây là rào chắn cuối cùng
tới Thượng đế. Phá huỷ cái đó nữa!"
Điều đó là rất khó
cho Ramakrishna. Ông ấy đã suy ngẫm trên thần tượng này trong nhiều năm và đã
nuôi dưỡng nó với nhiều tình yêu tới mức nó đã bắt đầu dường như là sống động.
Sẽ rất khó để phá huỷ nó. Ông ấy nhắm mắt đi nhắm mắt lại nhưng quay lại nói,
"Tôi không thể làm hành động tàn nhẫn này được!"
Nhưng hiền nhân nói,
"Nếu ông không thể làm được nó, ông không thể trở thành một với điều
thiêng liêng. Thế thì yêu của ông dành cho điều thiêng liêng là kém hơn yêu của
ông dành cho thần tượng này. Ông có sẵn sàng phá huỷ thần tượng vì điều thiêng
liêng không? Yêu của ông dành cho điều thiêng liêng là không đủ - ông không sẵn
sàng gạt bỏ thần tượng vì điều thiêng liêng!"
Bạn cũng không có mấy
yêu với điều thiêng liêng. Bạn cũng đang giữ các thần tượng giữa bạn và điều
thiêng liêng - ôm giữ giáo phái, ôm giữ kinh sách tôn giáo - và bạn không sẵn
sàng buông bỏ chúng.
Hiền nhân nói,
"Ông ngồi trong thiền đi, và ta sẽ cắt vào trán ông bằng mảnh kính. Và khi
ông cảm thấy ta cắt vào trán ông bằng mảnh kính, thu lấy dũng cảm nào đó và
chém Kali thành hai."
Ramakrishna tìm thấy
dũng cảm, và khi ông ấy đã làm điều đó thần tượng đã bị chém thành hai. Khi ông
ấy quay lại ông ấy nói, "Hôm nay, lần đầu tiên, tôi đã đạt tới samadhi.
Hôm nay, lần đầu tiên, tôi đã đi tới biết chân lí là gì. Lần đầu tiên tôi tự do
với tưởng tượng và tôi đã đi vào chân lí.”
Cho nên đây là lí do
tại sao tôi không yêu cầu bạn tưởng tượng bất kì cái gì. Tôi không yêu cầu bạn
tưởng tượng cái gì đó mà sẽ là chướng ngại. Và vài điều mà tôi đã nói về luân
xa và về hơi thở không phải là chướng ngại vì bạn không trở nên bị mê đắm với
chúng. Bạn không bận tâm tới chúng: chúng chỉ là các phương cách qua đó bạn có
thể đi vào bên trong. Chúng không thể trở thành chướng ngại.
Cho nên tôi chỉ nói về
việc dùng tưởng tượng theo cách mà đến cuối cùng nó không trở thành cản trở cho
thiền của bạn. Đây là lí do tại sao tôi đã không yêu cầu bạn thiền về cái gì
đó, tôi đã đơn giản yêu cầu bạn đi vào trong thiền. Tôi đã không yêu cầu bạn
hành thiền, tôi đã yêu cầu bạn đi vào trong thiền.
Bạn không thiền về
cái gì đó. Bạn phải đạt tới thiền bên trong bản thân bạn. Nếu bạn nhớ điều này,
nhiều điều sẽ trở thành rõ ràng.
Một bạn đã hỏi: Tại
sao tính tâm linh bị áp đảo bởi các mối quan tâm trần tục, mặc cho việc là cao
hơn của nó?
Cho tới giờ, tính tâm
linh đã không bị áp đảo. Cho tới ngày nay, tâm linh chưa bao giờ bị áp đảo bởi
những mối quan tâm trần tục. Bạn sẽ nói rằng tôi sai vì mọi ngày bạn phải cảm
thấy bị áp đảo bên trong bản thân bạn. Nhưng tôi hỏi bạn, bạn có bất kì mối
quan tâm tâm linh đích thực nào không? Điều bạn đang thực sự nói là ở chỗ cái
trở thành bị áp đảo không tồn tại trong bạn; nó chỉ là ý tưởng bạn có về tính
tâm linh, cái mà bạn đã nghe ở đâu đó. Nếu ai đó bảo bạn rằng kim cương lấp
lánh chỉ là đá cuội thường, bạn sẽ nói gì? Bạn sẽ nói rằng thế thì chúng không
thể là kim cương thực; kim cương phải là tưởng tượng và đá cuội phải là thực.
Cho nên tất nhiên kim cương sẽ bị thua và đá cuội sẽ thắng. Vì nếu kim cương là
thực, thế thì làm sao chúng có thể bị thua bởi đá cuội?
Bạn phải nghĩ rằng
trong cuộc sống của bạn phẩm chất tâm linh của bạn bị áp đảo bởi các mối quan
tâm trần tục của bạn. Nhưng những phẩm chất tâm linh đó ở đâu? Cho nên bất kì
cái gì bạn nghĩ đang bị áp đảo chỉ là tưởng tượng; phần kia chỉ là không hiện
diện. Bạn phải thường xuyên nghĩ rằng thù hận thắng và yêu bị áp đảo. Nhưng yêu
ở đâu? Bạn phải nghĩ rằng ham muốn đạt tới tiền thắng và nó áp đảo ham muốn biết
điều thiêng liêng. Nhưng ham muốn này để biết điều thiêng liêng là ở đâu? Nếu
nó thực sự có đó, không ham muốn nào có thể áp đảo được nó. Nếu nó thực sự có
đó, mọi ham muốn khác thậm chí không thể tồn tại. Vấn đề về nó bị áp đảo sẽ
không nảy sinh.
Nếu ai đó nói rằng có
sáng nhưng nó bị áp đảo bởi tối, bạn sẽ nói rằng người đó là điên. Nếu có sáng,
thế thì tối không thể bước vào được. Cho tới giờ đã không có chiến tranh giữa
sáng và tối. Cho tới giờ đã không bao giờ có xung đột giữa sáng và tối vì khoảnh
khắc có sáng, tối không còn tồn tại. Cái đối lập thậm chí không tồn tại, cho
nên chiến thắng không phải là vấn đề. Tối có thể thắng chỉ khi sáng không hiện
diện chút nào, cho nên chính thắng lợi chỉ có trong thiếu vắng của sáng. Nhưng
không có vấn đề về tối trong sự hiện diện của sáng vì tối biến mất, nó đơn giản
không có đó.
Điều bạn gọi là 'mối
quan tâm trần tục' sẽ biến mất nếu mối quan tâm tâm linh xảy ra trong bạn. Đây
là lí do tại sao toàn thể nỗ lực của tôi là nhấn mạnh nhiều vào tạo ra mối quan
tâm tâm linh trong bạn hơn là nhấn mạnh gạt bỏ các mối quan tâm trần tục của bạn.
Nhấn mạnh của tôi là vào cái khẳng định.
Khi mối quan tâm tâm
linh khẳng định nảy sinh trong bạn, các mối quan tâm trần tục của bạn trở nên yếu.
Khi yêu nảy sinh bên trong ai đó, ghét biến mất từ bên trong người đó. Không
bao giờ có đụng độ giữa yêu và ghét; mãi tới giờ điều đó đã không bao giờ xảy
ra. Khi chân lí nảy sinh bên trong ai đó, dối trá biến mất từ bên trong người
đó. Chân lí và phi chân lí không bao giờ trong xung đột. Khi bất bạo hành nảy
sinh bên trong ai đó, bạo hành của người đó biến mất. Bất bạo hành và bạo hành
chưa bao giờ trong xung đột. Vấn đề không phải là thua.. . thậm chí không có
tranh đấu. Bạo hành là yếu tới mức khoảnh khắc bất bạo hành nảy sinh, nó biến mất.
Phi tâm linh là rất yếu, thế giới là yếu, rất yếu.
Đây là lí do tại sao ở
Ấn Độ thế giới đã được mô tả là maya, ảo vọng. Maya ngụ ý cái gì đó mà yếu tới
mức bạn chỉ chạm vào nó một chút và nó biến mất. Nó là phép thần. Nó giống như
ai đó chỉ cho bạn cây xoài vừa mới xuất hiện, và khi bạn lại gần nó hơn, bạn thấy
rằng nó không có đó. Hay trong tối bạn thấy dây thừng treo đó và coi nó là con
rắn; thế rồi bạn lại gần hơn bạn thấy rằng không có rắn chút nào. Rắn mà bạn đã
thấy trong dây thừng là ảo vọng: nó dường như có đó nhưng nó không có.
Đó là lí do tại sao ở
Ấn Độ thế giới được nói là ảo vọng, vì khi bất kì người nào tới đủ gần, khoảnh
khắc người đó thấy chân lí người đó sẽ thấy rằng không có thế giới như vậy. Điều
bạn gọi là thế giới đã không bao giờ đương đầu với chân lí.
Cho nên khi bạn cảm
thấy rằng các mối quan tâm tâm linh đang bị thất bại, nhận ra một điều: những mối
quan tâm này của bạn phải là tưởng tượng. Bạn phải đã biết chúng qua đọc sách,
chúng không có bên trong bạn. Có nhiều người...
Một người tới tôi và
hỏi, "Trong quá khứ tôi thường trải nghiệm Thượng đế, nhưng tôi không còn
trải nghiệm thêm nữa!"
Tôi nói với anh ta,
"Điều đó phải không bao giờ đã xảy ra. Liệu có thể có chuyện rằng bạn bắt
đầu trải nghiệm điều thiêng liêng và thế rồi bạn không trải nghiệm nữa
không?"
Nhiều người tới tôi
và nói, "Tôi thường trải nghiệm thiền nhưng bây giờ tôi không thể trải
nghiệm thêm nữa."
Tôi bảo họ, "Nó
không bao giờ xảy ra giống như điều đó, vì không thể nào đã trải nghiệm thiền
và thế rồi đã mất nó."
Nhớ điều này trong
tâm trí: trong cuộc sống, trạng thái cao hơn có thể được đạt tới nhưng chúng
không bao giờ có thể bị mất. Bạn có thể đạt tới những trạng thái cao hơn nhưng
bạn không thể mất chúng, không có cách nào để mất chúng. Bạn có thể trở thành
trí huệ, bạn có thể đạt tới trí huệ, nhưng bạn không thể mất nó. Điều đó là
không thể được.
Nhưng điều xảy ra là ở
chỗ với giáo dục và với ước định, những cái gọi là cảm giác tôn giáo nào đó nảy
sinh trong bạn. Bạn tin chúng là có tính tôn giáo, chúng không có tính tôn giáo
đâu, chúng chỉ là ước định. Có khác biệt giữa tính tôn giáo và ước định. Từ thời
thơ ấu trở đi, bạn được dạy rằng có hồn. Bạn biết điều đó, bạn nhồi nhét điều
đó, bạn nhớ điều đó, nó trở thành một phần của hệ thống kí ức của bạn. Và về
sau bạn vẫn liên tục nói rằng có hồn và bạn nghĩ bạn biết rằng có hồn.
Bạn không biết nó
chút nào. Nó là ý tưởng mà bạn có lần đã nghe nói ở đâu đó, một thứ giả mà người
khác đã dạy bạn. Bạn không biết bất kì cái gì chút nào. Và thế rồi nếu cái gọi
là hồn này bị tiêu tan bởi đam mê của bạn, bạn nói, "Hồn là yếu tới mức nó
bị tiêu tan bởi ham muốn của tôi." Bạn không có hồn, bạn chỉ có ý tưởng.
Và ý tưởng đó đã được xã hội tạo ra, nó không phải là của bạn. Khi năng lượng của
các mối quan tâm tâm linh thức tỉnh qua trải nghiệm riêng của bạn, thế thì những
mối quan tâm trần tục biến mất. Chúng không còn có nắm giữ bạn.
Nhớ điều này: nếu bạn
cảm thấy rằng bạn bị tiêu tan, nhận ra rằng điều bạn đã tin là tôn giáo phải đã
là điều bạn nghĩ tôn giáo là vậy, không phải trải nghiệm riêng của bạn về tôn
giáo. Ai đó phải đã bảo bạn, bản thân bạn đã không trải nghiệm nó. Bạn phải đã
nghe nói về nó từ bố mẹ bạn. Bạn có thể đã có nó từ truyền thống, nhưng nó đã
không xảy ra bên trong bạn. Bạn nghĩ có sáng nhưng không có cái gì - đó là lí
do tại sao tối thắng. Khi có sáng, chính sự hiện diện của nó làm tiêu tan tối.
Sáng không tranh đấu với tối: chính sự hiện diện của nó, chính sự tồn tại của
nó là việc tiêu tan của tối.
Nhớ điều này trong
tâm trí của bạn, và vứt đi cái trống rỗng, cái gọi là những mối quan tâm tâm
linh và cảm giác tôn giáo bị tiêu tan. Biết chúng là trống rỗng, chúng không có
nghĩa. Việc hiểu về cách tạo ra mối quan tâm tâm linh đích thực sẽ tới với bạn
chỉ khi bạn đã hiểu cách bỏ các mối quan tâm giả.
Nhiều người trong các
bạn vẫn liên tục mang gánh hặng của những thứ tưởng tượng, những thứ không tồn
tại. Cứ dường như bạn là một trong những người ăn xin đó, người tưởng bản thân
mình là người giầu, điều bạn không là vậy. Tại sao khi bạn đưa tay vào túi và
không tìm thấy đồng tiền nào, bạn hỏi, "Đây là loại của cải gì vậy?"
Đây không phải là của cải chút nào.
Người ăn xin có trò
giải trí ưa thích: mơ về là giầu - và mọi người ăn xin đều mơ trở thành giầu.
Cho nên bạn càng trần tục, bạn sẽ càng mơ về có tính tôn giáo.
Có nhiều cách mơ. Đi
tới đền chùa buổi sáng, cúng dường chút ít cái gì đó, thực hiện nghi lễ nào đó,
đôi khi thậm chí đọc chút ít từ Gita, Koran hay Kinh Thánh, vậy là ảo vọng được
tạo ra rằng bạn có tính tôn giáo.
Những hành động này tạo
ra ảo vọng rằng bạn có tính tôn giáo. Và thế thì khi cái gọi là những mối quan
tâm tôn giáo bị tiêu tan bởi các ham muốn trần tục, bạn trở nên rất buồn và đầy
hối tiếc, và bạn nghĩ, "Những mối quan tâm tâm linh yếu làm sao và những mối
quan tâm trần tục mạnh làm sao." Nhưng bạn không có bất kì mối quan tâm
tâm linh nào. Bạn đang tự lừa bản thân bạn bằng việc nghĩ rằng bạn có tính tôn
giáo.
Cho nên bạn cần hiểu
rằng mối quan tâm tâm linh mà có thể bị tiêu tan bởi ham muốn dục là giả. Đây
là tiêu chí: mối quan tâm tâm linh mà có thể bị tiêu tan bởi những mối quan tâm
trần tục là giả. Ngày mối quan tâm được sinh ra trong bạn mà trong sự hiện diện
của nó các mối quan tâm trần tục biến mất - nơi cho dù bạn tìm chúng, bạn sẽ
không có khả năng tìm ra chúng - ngày đó, cái gì đó sẽ thực sự xảy ra cho bạn.
Bạn sẽ có thoáng nhìn về tính tôn giáo.
Nếu mặt trời mọc buổi
sáng và tối vẫn còn lại như nó vậy, biết rằng bạn chỉ đang mơ rằng mặt trời đã
mọc. Khi mặt trời mọc, tối biến mất bởi bản thân nó. Mặt trời không bao giờ gặp
tối; mặt trời không biết rằng cái gì đó như tối tồn tại. Và điều đó sẽ không
bao giờ là có thể cho nó biết.
Cho tới giờ hồn đã
không biết rằng cái gì đó như các ham muốn trần tục tồn tại. Khi hồn thức tỉnh,
thế thì ham muốn không được tìm thấy ở đâu cả. Hai điều này đã không bao giờ gặp
gỡ. Nhớ tiêu chí này; nó sẽ hữu dụng.
Một bạn đã hỏi: Khổ hạnh
có được cần trong thiền không?
Điều tôi đang mô tả
cho bạn - làm thuần khiết thân thể, làm thuần khiết ý nghĩ, làm thuần khiết cảm
xúc; trống rỗng của thân thể, trống rỗng của tâm trí, trống rỗng của cảm xúc -
đây là khổ hạnh.
Và mọi người nghĩ khổ
hạnh là gì? Nếu ai đó đang đứng dưới mặt trời, họ nghĩ rằng người đó đang rèn
luyện khổ hạnh. Nếu ai đó đang nằm trên giường gai, họ nghĩ rằng người đó đang
rèn luyện khổ hạnh. Nếu ai đó ngồi mà đói, điều đó ngụ ý người đó đang rèn luyện
khổ hạnh. Ý tưởng của chúng ta về khổ hạnh là rất vật chất, rất thân thể. Khổ hạnh,
với hầu hết mọi người, ngụ ý hành hạ thân thể. Nếu ai đó đang làm đau thân thể
mình, thế thì người đó đang rèn luyện khổ hạnh. Trong sự kiện thực tại, khổ hạnh
không liên quan gì tới làm đau thân thể. Khổ hạnh là cái gì đó tuyệt đối duy nhất;
nó là cái gì đó khác hoàn toàn.
Nếu ai đó nhịn ăn bạn
nghĩ người đó đang rèn luyện khổ hạnh - nhưng người đó chỉ đang chết từ cơn
đói. Và tôi thậm chí sẽ đi xa tới mức nói rằng người đó không nhịn ăn, người đó
chỉ đang trong tình trạng không thức ăn. Tình trạng không thức ăn, không ăn bất
kì cái gì, là một điều; nhịn ăn là cái gì đó khác toàn bộ.
Upvaas, việc nhịn ăn,
ngụ ý sống trong sự hiện diện của điều thiêng liêng. Nó có nghĩa là ở gần hồn của
người ta. Nó có nghĩa là ở gần hồn. Và tình trạng không thức ăn ngụ ý gì? Tình
trạng không thức ăn ngụ ý ở gần thân thể. Đây là hai điều đối lập đối xứng.
Người đói ở gần thân
thể hơn hồn. So với điều đó, người với dạ dầy đầy là ít gần thân thể hơn. Người
đói bao giờ cũng nghĩ về cơn đói, dạ dầy của người đó và thân thể người đó. Tuyến
ý nghĩ của người đó liên quan tới thân thể. Bận tâm của người đó là với thân thể
và với thức ăn.
Nếu là đói mà là đức
hạnh, nghèo nàn chắc trở thành cái gì đó đáng tự hào. Nếu vẫn còn đói là cái gì
đó tâm linh, các nước nghèo chắc là tâm linh. Nhưng bạn có biết rằng không nước
nghèo nào có thể là tâm linh không? Ít nhất điều đó đã không bao giờ xảy ra mãi
cho tới giờ. Một nước chỉ có thể trở thành có tính tôn giáo khi nó là giầu.
Bạn nhớ những ngày của
quá khứ khi các nước ở phương Đông đã có tính tôn giáo, khi Ấn Độ đã có tính
tôn giáo, nhưng đó là những ngày của thành công lớn, hạnh phúc lớn và sung túc
lớn. Mahavira và Phật đã là con trai của các vua; tất cả hai mươi bốn
tirthankaras của người Jaina đều là con trai của vua. Điều này không phải là
trùng hợp ngẫu nhiên. Tại sao tirthankara không bao giờ được sinh ra trong nhà
nghèo? Có lí do cho điều đó: khổ hạnh bao giờ cũng bắt đầu ở giữa sung túc. Người
nghèo ở gần với thân thể hơn. Người giầu bắt đầu trở nên tự do với thân thể,
theo nghĩa rằng nhu cầu thân thể của người đó đã được đáp ứng và lần đầu tiên
người đó bắt đầu trở nên nhận biết về nhu cầu mới mà là của hồn.
Đây là lí do tại sao
tôi không thiên về việc bạn vẫn còn đói, hay làm cho ai đó khác nhịn đói, hay
có xu hướng nghèo tâm linh. Những người nói điều này đang ở dưới ảo vọng và họ
đang lừa người khác nữa. Họ chỉ đang hỗ trợ cho nghèo và tìm cách giả tạo để cảm
thấy hài lòng. Vẫn còn đói không có giá trị gì, nhịn ăn có giá trị. Vâng, có thể
rằng trong trạng thái nhịn ăn bạn quên về thức ăn và đi mà không có nó, nhưng
đó là chuyện khác toàn bộ. Mahavira đã rèn luyện khổ hạnh. Ông ấy không chịu
đói, ông ấy nhịn ăn. Qua nhịn ăn ông ấy liên tục cố đạt tới gần hồn hơn. Trong
một số khoảnh khắc khi ông ấy ở gần hồn hơn, thế thì ông ấy quên sự hiện diện của
thân thể. Những khoảnh khắc này có thể được kéo dài và một hay hai ngày, thậm
chí một tháng có thể trôi qua.
Người ta nói về
Mahavira rằng trong mười hai năm rèn luyện khổ hạnh, ông ấy đã ăn chỉ ba trăm
năm mươi ngày. Một hay hai tháng sẽ trôi qua mà ông ấy đã không ăn. Bạn có cho
rằng nếu như ông ấy đói, hai tháng chắc đã đơn giản trôi qua sao? Người đói chắc
đã chết. Nhưng Mahavira đã không chết vì ông ấy không nhận biết về thân thể ông
ấy trong những thời kì đó. Đã có nhiều sự gần gũi, sự xấp xỉ tới hồn tới mức
ông ấy không nhận biết rằng thân thể cũng có đó.
Và đó là điều huyền
bí lớn... nếu bạn trở nên vô nhận biết về sự hiện diện của thân thể, nó bắt đầu
vận hành theo một hệ thống khác toàn bộ và nó không còn cần thức ăn. Bây giờ
chính sự kiện khoa học là nếu bạn trở nên hoàn toàn vô nhận biết về thân thể của
bạn, nó sẽ bắt đầu vận hành trong hệ thống khác toàn bộ và nó sẽ không cần mấy
tới thức ăn. Và người ta càng đi vào trong thế giới tâm linh, điều sẽ càng trở
thành có thể cho người đó là nhận năng lượng tinh tế, rất tinh tế từ thức ăn mà
là không thể được cho người thường. Cho nên khi Mahavira nhịn ăn, điều đó bao
giờ cũng chỉ vì ông ấy đã ở gần với hồn tới mức ông ấy sẽ quên mọi thứ về thức
ăn. Đây là cách điều đó có thể xảy ra.
Có lần một người tôn
giáo đã ở cùng tôi, và ông ta nói với tôi, "Tôi nhịn ăn hôm nay."
Tôi nói, "Ông chắc
phải ngụ ý ông ở trong tình trạng không thức ăn, nhưng không phải là nhịn
ăn!"
Ông ấy nói,
"Khác biệt gì giữa việc trong tình trạng không thức ăn và nhịn ăn?"
Tôi nói, “Khi ông
trong tình trạng không thức ăn, ông dừng ăn thức ăn và ông bắt đầu suy ngẫm về
thức ăn. Nhịn ăn ngụ ý rằng ông không còn quan tâm tới thức ăn; ông ở trong
giao cảm với hồn và thức ăn bị quên đi."
Nhịn ăn là khổ hạnh
đích thực. Và trong tình trạng không thức ăn là đang làm đau thân thể, kìm nén
thân thể.
Những người có bản
ngã ở trong tình trạng không thức ăn; người vô ngã nhịn ăn. Trong tình trạng
không thức ăn đáp ứng cho bản ngã, rằng "Tôi đã không ăn nhiều ngày thế rồi!"
Bạn nghe lời ca ngợi
và vui vẻ khắp quanh bạn. Tin tức rằng bạn là rất có tính tôn giáo lan truyền
khắp mọi nơi. Ngay cả chút ít đau cho thân thể cũng đáp ứng lớn cho bản ngã,
cho nên mọi người với bản ngã lớn đồng ý làm điều này.
Tôi đang bảo bạn rõ
ràng rằng đây là mối quan tâm của bản ngã. Đây không phải là mối quan tâm và bận
tâm tôn giáo. Những người tôn giáo dứt khoát nhịn ăn, nhưng họ không trong tình
trạng không thức ăn. Nhịn ăn ngụ ý rằng người ta được tham gia toàn bộ vào
trong nỗ lực tới gần hồn. Và khi người ta bắt đầu tới gần hồn hơn, điều xảy ra
là thức ăn bị quên đi hoàn toàn. Và tôi bảo bạn điều này một cách nhấn mạnh rằng
nó là đúng trong mọi thứ, không chỉ trong điều này mà trong mọi khía cạnh của sự
sống.
Hôm qua tôi đã nói với
bạn về dục và yêu... hay nó có thể là cái gì đó khác. Người bận rộn kìm nén dục
sẽ dường như rất tôn giáo với bạn, nhưng thực ra người đó không có tính tôn
giáo chút nào. Người tôn giáo là ai đó được tham gia vào trong việc phát triển
yêu, vì bằng việc là yêu nhiều hơn, dục sẽ tự nó biến mất. Khi bạn tới gần với
điều thiêng liêng hơn, sẽ có nhiều thay đổi bên trong thân thể. Cách bạn nhìn
thân thể sẽ khác, nó sẽ thay đổi.
Khổ hạnh là khoa học
qua đó người ta quên rằng "Mình là thân thể" và đi tới biết rằng
"Mình là hồn." Khổ hạnh là vấn đề kĩ thuật. Khổ hạnh là kĩ thuật. Chiếc
cầu, con đường qua đó người ta quên rằng người ta là thân thể, và việc nhận ra
bừng lên trong người đó rằng người đó là hồn.
Nhưng khổ hạnh giả sẽ
tiếp diễn trên khắp thế giới và họ đã tạo ra nhiều nguy hiểm. Họ thoả mãn cho bản
ngã của vài kẻ bản ngã nhưng gây hại lớn cho việc hiểu của quần chúng, vì thế
thì quần chúng tin rằng đây là khổ hạnh thực, rằng đây là thiền thực, rằng đây
là yoga thực. Nhưng chúng không là thiền không là yoga.
Và tôi sẽ nói cho bạn
cái gì đó thêm nữa: những người quan tâm tới việc kìm nén thân thể theo cách
này đơn giản là thần kinh. Cũng vậy, những người thích thú làm đau thân thể họ
là cùng những người thích thú gây đau trên thân thể của ai đó khác. Khác biệt
duy nhất là ở chỗ niềm vui họ sẽ trải nghiệm trong việc gây đau lên thân thể
người khác được trải nghiệm bằng làm đau thân thể riêng của họ. Đây là những
người bạo hành. Đây là tự bạo, nó là bạo hành hướng tới bản thân người ta.
Và tôi cũng nhắc bạn
rằng có hai loại bản năng trong con người: một bản năng là sống, bản năng sống
còn; và bạn có thể không nhận biết rằng có bản năng khác trong người đó là chết,
bản năng chết. Nếu như không có bản năng chết trong con người, chắc không thể
có nhiều tự tử thế trên khắp thế giới. Bản năng chết tiềm tàng hiện diện trong
mọi người - cho nên cả hai bản năng này đều hiện diện bên trong bạn.
Bản năng chết có thể
làm cho một người giết bản thân mình. Người đó bắt đầu thích thú điều đó, có được
nước quả của nó. Một số người tự tử trong một lần làm thử và một số người làm
nó rất chậm, trong việc trả góp. Những người làm nó rất chậm, bạn nói họ đang
rèn luyện khổ hạnh, và những người làm nó trong một lần được gọi là tự tử.
Nhưng những người làm nó một cách chậm chạp dường như là rèn luyện khổ hạnh!
Khổ hạnh không phải
là tự tử. Khổ hạnh chẳng có liên quan gì tới chết, nó có liên quan tới sống vô
hạn. Khổ hạnh không quan tâm tới chết nhưng quan tâm về đạt tới sống toàn bộ
hơn.
Cho nên cái nhìn của
tôi về khổ hạnh được chứa trong ba chìa khoá mà tôi vừa nói cho bạn, và chúng
ta sẽ thảo luận về ba chìa khoá này về sau. Sáu chìa khoá giải thích khổ hạnh
là gì tương ứng với cái nhìn của tôi. Người đi vào trong sáu lời kinh này đang
rèn luyện khổ hạnh. Bạn đã bao giờ tự hỏi liệu đó có là khổ hạnh thực sự không
khi một người chạy đi và bỏ lại vợ đằng sau? Mọi người gọi điều này là khổ hạnh...
họ thậm chí sẽ gọi anh ta là sannyasin! Và vậy mà lại có thể là người đó đã chạy
đi và bỏ vợ lại đằng sau nhưng vẫn nghĩ về cô ấy. Khổ hạnh là khi vợ vẫn đang
ngồi cạnh bạn và bạn không bị sao lãng bởi cô ấy. Chạy đi và vẫn cứ nghĩ về cô ấy
thì không phải là khổ hạnh.
Và nhớ, những người
chạy đi và bỏ mọi thứ lại đằng sau vẫn liên tục nghĩ về những thứ đó. Với họ
không thể không nghĩ được, vì nếu họ mà là loại người không nghĩ, họ chắc sẽ có
khả năng không nghĩ về họ ngay cả khi họ vẫn còn ở cùng với những thứ đó.
Để tôi cũng nói cho bạn
điều này: khi mọi thứ hiện diện bạn không nghĩ về chúng, nhưng khi chúng không
hiện diện thêm nữa bạn bắt đầu nghĩ về chúng. Bản thân bạn đã không trải nghiệm
điều này sao? Bạn không nghĩ về cái ở trước bạn, bạn nghĩ về cái vắng mặt. Nếu
những người bạn yêu ở gần bạn, bạn quên về họ; khi họ ở xa xôi bạn bắt đầu nhớ
họ. Họ càng ở xa, bạn càng nhớ họ mãnh liệt hơn. Bạn không có ý tưởng về những
cái gọi là sannyasin này khổ thế nào.
Nếu mọi người tôn
giáo này trên thế giới mà chân thực, thế thì ảo vọng này về việc có tính tôn
giáo của họ chắc sẽ biến mất. Và nếu như họ phơi bày một cách chân thực rối loạn
bên trong của họ, cái gì đang xảy ra trong họ và đau đớn họ đang trải qua, khao
khát họ đang chịu đựng, ham muốn, cái đang cho họ đau và quỉ dường như đang gây
ra đau khổ cho họ - nếu như họ mà nói cho bạn mọi điều này, bạn chắc sẽ nhận ra
rằng địa ngục là ở ngay đây trên thế gian. Tôi đang nói điều này với bạn với thẩm
quyền: địa ngục không thể là ở bất kì chỗ nào khác trên thế giới. Cuộc sống của
người ta là địa ngục nếu người ta đã không biến đổi ham muốn của mình mà đã chạy
xa khỏi chúng.
Khổ hạnh không ngụ ý
chạy ra xa khỏi bất kì cái gì, nó là việc biến đổi. Khổ hạnh không phải là từ bỏ
nhưng là biến đổi. Khổ hạnh không phải là hi sinh, nó là biến đổi đúng - và bất
kì cái gì xảy ra trong biến đổi đó đều là đúng. Và bất kì cái gì xảy ra bằng việc
chạy xa ra, bằng từ bỏ, là không đúng. Sẽ rất giúp ích nếu bạn có thể hiểu được
điều này. Hàng nghìn người đang khổ. Họ chỉ có một niềm vui: việc thoả mãn cho
bản ngã. Điều này cũng là chỉ vài người có khả năng thoả mãn, không phải tất cả.
Các bản ngã của những người rất thông minh, bởi lí do nào đó, được thoả mãn dễ
dàng hơn. Người còn lại khổ và liên tục hi vọng rằng một ngày nào đó họ sẽ lên
cõi trời, rằng họ sẽ được cứu khỏi đi xuống địa ngục và có lẽ trải nghiệm niết
bàn. Tham, cái đang bám lấy bạn, cũng đang bám lấy họ. Tham cho bạn năng lực để
chịu đựng nhiều đau. Ngay cả người thường trong tham của mình cũng có thể chịu
được nhiều đau. Người thường, người tham về tiền trải qua nhiều đau thế để tích
luỹ tiền, và người tham lên cõi trời cũng chịu nhiều đau.
Khi những người đem
Christ đi đóng đinh ông ấy, một trong những người đi theo ông ấy đã hỏi,
"Chúng tôi đã từ bỏ mọi thứ vì ông: nói cho chúng tôi, chúng tôi sẽ được đối
xử thế nào trong vương quốc của Thượng đế?" Người đó đã hỏi, "Chúng
tôi đã từ bỏ mọi thứ vì ông, chỗ nào sẽ là chỗ của chúng tôi trong vương quốc của
Thượng đế?"
Christ phải đã nhìn
ông ta với thương hại lớn và có lẽ từ thương hại hay đùa vui, tôi không biết tại
sao ông ấy đã nói điều đó, ông ấy đã đáp, "Với ông nữa sẽ có chỗ cạnh Thượng
đế."
Người này trở nên hài
lòng. Ông ta nói, "Thế thì điều đó là được."
Bây giờ bạn nói rằng
người này đã từ bỏ sao? Khó mà tìm ra một người nào tham hơn người hỏi,
"Tôi đã từ bỏ mọi thứ, giờ tôi sẽ được cái gì đền đáp lại?" Ai đó
đang nghĩ về được cái gì đó đền đáp lại thì đã không từ bỏ chút nào. Đó là lí
do tại sao mọi việc nói này về khổ hạnh - mọi người đều nói về khổ hạnh - cũng
cho bạn sự cám dỗ để rèn luyện khổ hạnh đặc biệt, để cho bạn sẽ được phần thưởng
đặc biệt.
Khổ hạnh được làm với
ham muốn được cái gì đó đền đáp lại là giả, vì cái đó không phải là khổ hạnh
chút nào, nó là một dạng của tham. Đây là lí do tại sao mọi dạng khổ hạnh hiện
có đều hứa hẹn với bạn cái gì đó được đền đáp lại. Họ bảo bạn rằng mọi người đã
rèn luyện khổ hạnh này kia trong quá khứ đều đã đạt tới cái gì đó này khác. Đây
toàn là các dạng của tham.
Khổ hạnh duy nhất là
cố biết bản thân người ta. Không phải là bạn sẽ được một chỗ trên cõi trời qua
cái này hay cái nọ - nhưng bạn sẽ trải nghiệm niềm vui lớn. Không biết cái ngã
riêng của người ta là không biết bản thân sự sống, và không biết cái ngã riêng
của bạn... Không thể có chuyện là khao khát biết bản thân người ta không nảy
sinh trong ai đó người thậm chí có chút ít thông minh. Người đó sẽ nhấn mạnh
vào việc biết mình là ai và trở nên quen thuộc với sinh lực bên trong người đó.
Khổ hạnh là cách để
biết chân lí của sự sống. Khổ hạnh không phải là đè nén thân thể. Vâng, có thể
là nhiều thứ đang xảy ra cho thiền nhân mà với bạn có thể dường như đó là đè
nén thân thể, mặc dầu người đó không làm bất kì điều gì như vậy.
Bạn đã bao giờ thấy
tượng của Mahavira chưa? Khi bạn nhìn vào tượng của ông ấy, bạn có cảm thấy rằng
người này đã kìm nén thân thể của ông ấy không? Bạn đã bao giờ thấy một thân thể
như thế này ở chỗ nào khác không? Và thế rồi bạn đã nhìn vào các thánh nhân những
người đi theo Mahavira mà xem? Khoảnh khắc bạn nhìn vào họ bạn biết rằng họ đã
đè nén thân thể họ. Nguồn sống của họ tất cả đã khô cạn. Thân thể họ buồn và đờ
đẫn, và trạng thái tâm thức của họ cũng đờ đẫn. Họ chỉ đang chuyển động theo bùa
mê của tham: "Phúc lạc ở đâu, an bình ở đâu mà chúng ta có thể thấy trong
tượng của Mahavira?"
Đây là cái gì đó để
nghĩ tới. Mahavira bỏ quần áo. Bạn nghĩ ông ấy bỏ quần áo vì ông ấy nghĩ rằng
quần áo phải bị từ bỏ. Không, ông ấy đơn giản đi tới biết niềm vui của việc trần
trụi. Tôi muốn nói cho bạn rất rõ ràng rằng Mahavira đã không bỏ quần áo của
ông ấy vì có niềm vui nào đó trong việc từ bỏ chúng, ông ấy đã bỏ chúng vì niềm
vui của việc ở trần trụi. Việc trần trụi là phúc lạc với ông ấy tới mức việc mặc
quần áo trở thành quấy rầy. Ông ấy đã tìm thấy nhiều phúc lạc bởi việc ở trần tới
mức sự hiện diện của quần áo trở thành việc quấy rầy, cho nên ông ấy đã vứt quần
áo đi.
Khi một sư đi theo
ông ấy bỏ quần áo của mình, ông ta không cảm thấy bất kì vui vẻ nào trong điều
đó. Thực ra, khó cho ông ta bỏ quần áo. Và bằng việc trải qua khó khăn đó ông
ta nghĩ rằng ông ta đang rèn luyện khổ hạnh. Khi ông ta bỏ quần áo của mình,
ông ta nghĩ, "Mình đang rèn luyện khổ hạnh."
Đây không phải là khổ
hạnh với Mahavira, nó đã là hành động của niềm vui. Và nếu ai đó đi theo
Mahavira mà không hiểu ông ấy, không có việc hiểu hồn ông ấy, người đó sẽ chỉ bỏ
quần áo của mình, và vì việc bỏ quần áo của ông ta sẽ là khó cho ông ta, ông ta
sẽ gọi điều này là khổ hạnh.
Khổ hạnh là không đau
đớn. Có thể không có niềm vui nào lớn hơn khổ hạnh. Vậy mà những người rèn luyện
nó chỉ trên bề ngoài sẽ cảm thấy rằng nó là khó khăn và đau đớn. Và trong đổi
chác cho việc trải qua nhiều đau đớn thế họ sẽ thoả mãn cho các bản ngã của họ
trên thế gian và sẽ thoả mãn cho tham của họ về thế giới khác. Tôi không gọi điều
này là khổ hạnh. Khổ hạnh là quá trình đi vào bên trong bản thân bạn với sự
giúp đỡ của tâm trí và thân thể. Và đi vào bản thân người ta là khó và gian
truân - điều có lấy quyết tâm lớn.
Nghĩ về điều này đi.
Nếu tôi liên tục đứng trong mưa và mặt trời nóng: phải chăng có nhiều khổ hạnh
trong điều này hơn là trong sự kiện là khi ai đó lăng mạ tôi, tôi không trở nên
giận? Liệu khổ hạnh hơn trong việc nằm trên giường đinh có là nhiều hơn so với
sự kiện là khi ai đó đập tôi bằng hòn đá, ngay cả ý nghĩ về việc đập lại anh ta
bằng hòn đá cũng không nảy sinh trong tim tôi? Cái nào chứa nhiều khổ hạnh hơn?
Bất kì người nào
trong rạp xiếc đều có thể nằm trên giường đinh; đứng trong ánh mặt trời nóng chỉ
là vấn đề rèn luyện, và sau khi rèn luyện nó trong vài ngày nó không còn có bất
kì ý nghĩa nào. Nó là rất đơn giản, nó là tuyệt đối đơn giản. Vẫn còn trần trụi
là vấn đề rèn luyện. Thực ra, tất cả những người nguyên thuỷ trên thế giới đều
sống trần trụi. Nhưng chúng ta không gọi điều đó là khổ hạnh, và chúng ta không
đi tới họ và sụp xuống chân họ dường như họ đang làm cái gì đó lớn lao. Chúng
ta biết rằng đó là tục lệ của họ. Điều đó là rất tự nhiên cho họ, nó không khó
với họ.
Khổ hạnh không ngụ ý
rằng bạn chỉ liên tục rèn luyện cái gì đó. Nhưng chín mươi chín trong một trăm
người đang làm điều này. Bạn sẽ hiếm khi bắt gặp ai đó có khổ hạnh là quả của
niềm vui của người đó - và khổ hạnh là thực chỉ khi nó là quả của niềm vui.
Nhưng khi nó ở trong phục vụ cho khổ, nó không là gì nhiều hơn một dạng của tự
bạo - nó không có tính tôn giáo, nó là thần kinh.
Và nếu việc hiểu tăng
trưởng trên thế giới, chúng ta sẽ gửi cái gọi là người tôn giáo này tới bệnh viện
tinh thần, không tới đền chùa. Thời gian không còn xa khi ai đó có vui thú từ
việc làm đau thân thể riêng của mình sẽ cần được điều trị. Và nếu ai đó chỉ tận
hưởng vui thú của thân thể người đó cũng là ốm, hệt như ai đó có niềm vui từ việc
làm đau thân thể mình là ốm ở cực đoan khác. Nếu ai đó có niềm vui từ chỉ dùng
thân thể mình cho vui thú, đó là ốm. Nó là ốm của người bao giờ cũng tìm vui
thú thân thể. Và nếu ai đó tận hưởng làm đau thân thể người đó, điều này nữa
cũng là ốm - nó là ốm của người khổ hạnh, người đã đè nén mọi ham muốn thân thể
của mình.
Ai đó dùng thân thể
đúng trở nên tự do khỏi ốm. Người đó không bị đồng nhất với thân thể của mình,
không qua mê đắm hay đè nén. Thân thể đơn giản là phương tiện. Chỉ người không
đè nén thân thể không mê đắm trong nó, người có vui thú hay đau khổ không phụ
thuộc vào thân thể, người có niềm vui không phụ thuộc vào thân thể mà thay vào
đó phụ thuộc vào hồn - chỉ người như vậy đang đi hướng tới tôn giáo.
Có hai kiểu người có
niềm vui phụ thuộc vào thân thể: một kiểu người trải nghiệm niềm vui bằng việc ăn
quá nhiều, và kiểu kia là người trải nghiệm niềm vui bằng việc không ăn. Nhưng
cả hai đều có niềm vui từ việc hành hạ thân thể - nếu họ trải nghiệm bất kì niềm
vui nào, nó bị giới hạn vào thân thể. Đây là lí do tại sao tôi gọi cả hai loại
người mê đắm và loại người tôn giáo này là duy vật: bản thân họ chỉ quan tâm tới
thân thể. Với tôn giáo là cái gì đó mà chỉ liên quan tới thân thể là rất có hại.
Các phẩm chất tâm linh của tôn giáo cần được thiết lập lại.
Một câu hỏi nữa về chủ
đề này: Khác biệt gì giữa rag, ham muốn; virag, từ bỏ ham muốn; và veetrag, bên
ngoài ham muốn.
Rag ngụ ý gắn bó với
cái gì đó. Virag ngụ ý đi ngược lại gắn bó đó. Và veetrag ngụ ý bên ngoài gắn
bó.
Nếu bạn cố hiểu điều
tôi đang nói ngay bây giờ, thế thì rag là gắn bó với cái gì đó và virag là phủ
nhận gắn bó đó. Nếu người ta tích luỹ tiền đó là rag, và nếu ai đó từ bỏ tiền
và chạy đi, đây là virag. Nhưng hội tụ trong cả hai trường hợp là tiền. Người
đang tích luỹ đang nghĩ về tiền, và người đang bỏ lại nó đằng sau cũng đang
nghĩ về tiền. Người lấy niềm vui từ việc đã tích luỹ nhiều thế - người đó có
nhiều thế và bản ngã của người đó được thoả mãn bằng việc nghĩ về nó - trong
khi người khác đang thoả mãn bản ngã của người đó bằng việc nghĩ về sự kiện rằng
người đó đã từ bỏ nhiều thế.
Bạn sẽ ngạc nhiên...
người có tiền giữ tài khoản về họ có bao nhiêu, nhưng người đã từ bỏ tiền cũng
giữ tài khoản về cái họ đã từ bỏ. Những sư này và những người tôn giáo đã liệt
kê ra bao nhiêu lần nhịn ăn họ đã làm! Họ giữ dấu vết của các loại nhịn ăn khác
nhau họ đã làm. Cũng như có bản ghi về từ bỏ, cũng có bản ghi về mê đắm. Rag giữ
bản ghi, và virag cũng giữ bản ghi, vì điểm hội tụ của họ là như nhau; họ đang
ôm giữ cùng điều.
Veetrag, là ở bên
ngoài gắn bó, không phải là hệt như virag, phủ nhận gắn bó. Veetrag là tự do khỏi
cả gắn bó và phủ nhận gắn bó. Veetrag là trạng thái của tâm thức nơi không có gắn
bó không có phi gắn bó. Người đó là trung lập. Người đó có tiền nhưng người đó
không bận tâm.
Kabir có một con
trai, Kamaal. Kabir có thói quen về virag, phủ nhận gắn bó. Ông ấy không thích
cách thức của Kamaal, vì nếu ai đó tặng cái gì đó cho Kamaal anh ta sẽ giữ nó.
Kabir bảo anh ta nhiều lần, "Đừng chấp nhận các món quà từ bất kì người
nào. Chúng ta không cần bất kì tiền nào."
Nhưng Kamaal sẽ nói,
"Nếu tiền là vô dụng, thế thì nhu cầu là gì ngay cả để nói không? Nếu tiền
là vô dụng, thế thì chúng ta không hỏi xin nó vì nó là vô dụng. Nhưng nếu ai đó
tới đây để làm nhẹ gánh cho bản thân người đó, tại sao nói không với người đó?
Sau rốt, nó là vô dụng."
Kabir không thích điều
đó. Ông ấy nói, "Ta muốn con sống riêng ra đi."
Virag của ông ấy, việc
phủ nhận gắn bó của ông ấy, đã bị làm tan nát bởi điều đó. Cho nên ông ấy bảo
Kamaal sống riêng ra, và Kamaal bắt đầu sống trong một chiếc lều tách rời.
Nhà vua của vùng
Kashi thường tới thăm Kabir. Ông ta nói, "Ta không thấy Kamaal quanh
đây."
Kabir nói, "Tôi
không thích cách thức của nó, hành vi của nó là nông cạn. Tôi đã cho nó ở riêng
tách rời. Nó sống tách rời ra."
Nhà vua hỏi, "Lí
do gì?"
Kabir nói, "Nó tham
tiền. Ai đó cho cái gì đó và nó nhận luôn."
Nhà vua đi tới gặp
Kamaal và, cúi mình, đặt một viên kim cương rất có giá trị dưới chân anh ta.
Kamaal nói, "Bệ hạ mang cái gì vậy? Chỉ là hòn đá!"
Nhà vua nghĩ,
"Nhưng Kabir đã nói rằng Kamaal bi gắn bó với của cải, và anh ta nói rằng
ta chỉ mang hòn đá!" Cho nên ông ấy nhặt nó lên và bắt đầu để nó lại vào
túi mình.
Kamaal nói, "Nếu
nó là hòn đá, thế thì đừng bận tâm mang gánh nặng nào trở về cùng bệ hạ; bằng
không bệ hạ sẽ vẫn nghĩ rằng nó là kim cương."
Nhà vua nghĩ,
"Cái gì đó thủ đoạn diễn ra đây." Nhưng ông ta nói, "Vậy ta nên
để nó ở đâu?"
Kamaal đáp, "Nếu
bệ hạ hỏi để nó ở đâu, thế thì bệ hạ đừng coi nó chỉ là hòn đá. Và bệ hạ đang hỏi
để nó ở đâu, cho nên bệ hạ không nghĩ nó chỉ là hòn đá. Đơn giản vứt nó đi! Cần
gì giữ nó?"
Nhà vua để nó vào góc
mái tranh của chiếc lều. Thế rồi ông ta ra về vẫn nghĩ, "Đây là lừa đảo!
Khi ta quay về nó sẽ mất."
Sau sáu tháng ông ta
quay lại và nói, "Một thời gian trước đây ta đã tặng cho ngươi cái gì
đó."
Kamaal nói, "Nhiều
người tặng nhiều thứ. Và chỉ nếu tôi có bất kì quan tâm nào tới những món quà
đó thì tôi mới bận tâm hoặc giữ chúng hoặc trả lại chúng. Nhưng tôi không quan
tâm tới những món quà đó, cho nên tại sao tôi phải giữ dấu vết của chúng? Vâng,
bệ hạ phải đã cho tôi cái gì đó. Vì bệ hạn đang nói vậy, bệ hạ phải đã mang một
món quà."
Nhà vua nói,
"Quà của ta không rẻ thế đâu, nó rất có giá trị. Hòn đá mà ta đã cho ngươi
đâu?"
Kamaal nói, "Điều
đó rất khó. Bệ hạ đã để nó ở đâu?" Nhà vua đi và nhìn và góc mái nơi ông
ta đã nhét nó vào, và hòn đá vẫn ở đó. Ông ta ngạc nhiên!
Điều này đã mở mắt
ông ta.
Người Kamaal này là
duy nhất: với anh ta nó chỉ là hòn đá. Đây là điều tôi gọi là veetrag, đi ra
ngoài gắn bó. Nó không phải là virag, phủ nhận gắn bó. Đây là đi ra ngoài gắn
bó.
Rag là việc quan tâm
tới giữ cái gì đó, và virag là quan tâm tới từ bỏ cùng cái đó. Veetrag nghĩa là
cái đó đã mất mọi nghĩa. Veetrag, đi ra ngoài ham muốn, là mục đích.
Những người đạt tới
nó thì biết phúc lạc tối thượng vì gắn bó của họ với cái bên ngoài đã tan biến.
Và bây giờ, câu hỏi
cuối cùng: Thiền là không thể được nếu không có điều thầy đã gọi là nền móng
cho thiền: thuần khiết của thân thể, thuần khiết của ý nghĩ và thuần khiết của
cảm xúc?
Không, không có chúng
thiền cũng vẫn là có thể, nhưng nó là có thể chỉ cho rất ít người. Nếu bạn đi
vào trong thiền với quyết tâm toàn bộ, thế thì cho dù không có việc làm thuần
khiết bất kì cái gì trong những điều này bạn vẫn có thể đi vào trong thiền vì
khoảnh khắc bạn đi vào, tất cả chúng sẽ trở thành thuần khiết. Nhưng nếu nó
không dễ dàng cho bạn để có nhiều quyết tâm thế - rất khó có nhiều quyết tâm thế
- thế thì bạn sẽ phải làm thuần khiết chúng từng cái một.
Bạn sẽ không đạt tới
trạng thái thiền bằng việc làm cho chúng thành thuần khiết, nhưng bạn sẽ đạt tới
quyết tâm lớn hơn bằng việc làm cho chúng thuần khiết. Bằng việc làm thuần khiết
chúng, năng lượng mà đã bị phí hoài qua không thuần khiết sẽ được cứu, và năng
lượng đó sẽ được biến đổi thành quyết tâm. Thế thì bạn sẽ đi vào trong thiền. Việc
làm thuần khiết ba điều này là giúp ích, nhưng không bản chất.
Việc làm thuần khiết
ba điều này là bản chất cho bất kì người nào thấy không thể đi vào trong thiền
một cách trực tiếp, và người sẽ làm khác đi thì không có khả năng đi vào trong
thiền.
Nhưng chúng không là
tuyệt đối bản chất vì nếu có quyết tâm toàn bộ, cho dù một khoảnh khắc, bạn có
thể đi vào trong thiền. Cho dù một khoảnh khắc, nếu ai đó thu lấy toàn bộ năng
lượng và lấy cú nhảy, thế thì không có gì có thể dừng được người đó, không việc
không thuần khiết nào có thể dừng được người đó. Nhưng chỉ vài người có đủ may
mắn để thu lấy chừng nấy năng lượng; chỉ vài người có đủ may mắn để thu lấy chừng
nấy dũng cảm.
Duy nhất loại người
mà tôi vừa nói với bạn trong câu chuyện này có thể thu lấy chừng nấy dũng cảm.
Ngày xưa có một người
nghĩ rằng thế giới phải kết thúc ở đâu đó, cho nên anh ta lên đường đi tìm chỗ
mà thế giới kết thúc. Anh ta đã du hành hàng nghìn dặm, và luôn hỏi mọi người,
"Tôi phải tìm chỗ mà thế giới kết thúc."
Chung cuộc anh ta đi
tới một ngôi đền nơi có bảng hiệu viết: Chỗ này kết thúc thế giới. Anh ta trở
nên rất sợ... bảng hiệu đã xuất hiện; xa thêm chút nữa và thế giới sẽ kết thúc.
Và bên dưới bảng hiệu điều này được viết: Đừng đi xa hơn nữa. Nhưng anh ta muốn
xem kết thúc của thế giới, cho nên anh ta đi tiếp.
Một khoảnh cách ngắn
từ đó thế giới đã đi tới kết thúc. Có một dải đất ven bờ và bên dưới nó là vực
thẳm vô hạn. Anh ta vừa mới nhìn và anh ta sợ chết khiếp. Anh ta chạy lui; anh
ta thậm chí không thể nhìn lại sau vì có vực thẳm thế. Kẽ nứt không sâu thế đã
gây kinh hoàng, nhưng chúng có đáy; kẽ nứt này là vô hạn - nó là kết thúc của
thế giới. Vực thẳm này là kết thúc và không có gì bên ngoài vực thẳm. Trong sợ
hãi anh ta chạy vào trong đền và nói với tu sĩ, "Điểm cuối cùng này là rất
nguy hiểm."
Tu sĩ đáp, "Nếu
như ông đã nhảy, ông chắc sẽ thấy rằng chỗ kết thúc của thế giới là chỗ bắt đầu
của tính thượng đế." Ông ấy nói, "Nếu ông đã nhảy vào trong vực thẳm
đó ông chắc đã tìm thấy điều thiêng liêng."
Nhưng thu lấy đủ dũng
cảm để nhảy vào trong vực thẳng này đi, nếu bạn đã không có nó, việc chuẩn bị
nào đó cho thiền là được cần. Duy nhất người sẵn sàng nhảy vào trong vực thẳm
này mới không cần chuẩn bị. Và làm sao có thể có bất kì chuẩn bị nào? Có thể
không có chuẩn bị, và đây là lí do tại sao tôi đã gọi những chuẩn bị này là rèn
luyện bên ngoài. Chúng là các phương tiện bên ngoài và chúng sẽ giúp bạn cho tới
điểm nào đó. Bất kì người nào có dũng cảm có thể nhảy thẳng, và bất kì người
nào không có dũng cảm có thể dùng các bước này, nhớ điều này.
Chỉ những câu hỏi này
có thể được thảo luận hôm nay. Phần còn lại chúng ta sẽ thảo luận ngày mai.
0 Đánh giá