Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đường Xưa Mây Trắng
Chương 75. Những Giọt Nước Mắt Sung Sướng Của Sudatta
Mười hôm sau, Bụt
khoác y, ôm bát và rời thành Vương Xá. Người đi lên miền Bắc, vượt sông Hằng, tới
thăm viếng chúng khất sĩ ở tu viện Trùng Các, rồi người lại lên đường, hướng về
thủ đô Savatthi. Mùa mưa sắp tới, và người cần về tu viện Cấp Cô Độc để kịp thời
chuẩn bị cho khóa an cư. Theo người có đại đức Ananda, các đại đức Sariputta, Moggallana
và khoảng ba trăm vị khất sĩ khác.
Tới Savatthi, Bụt về
thẳng tu viện Jetavana. Các thầy chờ Bụt ở đây rất đông. Năm nay các vị khất sĩ
và nữ khất sĩ về an cư rất đông. Tin tức về những cuộc biến động ở kinh đô
Magadha ai cũng đã được nghe. Thấy Bụt về nguyên vẹn và khỏe mạnh, mọi người đều
tỏ vẻ mừng vui. Ni sư Khema lãnh đạo một đoàn nữ khất sĩ đến thăm viếng Bụt.
Năm nay bà được đưa
lên làm vị lãnh đạo tối cao bên ni giới. Ni sư Pajapati đã viên tịch mười năm về
trước. Quốc vương Pesanadi nghe Bụt về cũng lập tức đến tu viện thăm người. Vua
hỏi thăm Bụt về tình hình ở Rajagaha. Bụt thuật cho vua nghe nhiều chuyện,
trong đó có buổi gặp gỡ giữa người và thái hậu Videhi em ruột của vua. Bụt cho
vua biết là thái hậu vẫn được bình yên nhưng chắc là trong lòng còn nhiều sầu
khổ, vua cho Bụt biết là vua đã gửi một sứ đoàn qua Rajagaha cách đây hơn một
tháng, và yêu cầu Ajatasattu Videhiputta giải thích tại sao có chuyện giam giữ quốc
vương Bimbisara và hai vị đại thần. Quốc vương Ajatasattu là cháu của vua. Vua
bảo nếu cần thì Ajatasattu phải về Savatthi để trình bày mọi sự. Hiện vẫn chưa
thấy sứ đoàn trở về. Vua cũng cho biết là để tỏ ý phản kháng hành động của quốc
vương xứ Magadha, vua đã lấy lại thục ấp mà thượng hoàng đã tặng nước Magadha
hơn sáu mươi mấy năm về trước, khi em gái vua về làm chánh hậu của vua Bimbisara.
Thục ấp này thuộc địa phận Baranasi xứ Kasi.
Ngày an cư mùa mưa đã
đến. Các trung tâm tu học ở vùng thủ đô và các vùng lân cận đều có đầy các vị
khất sĩ và nữ khất sĩ cư trú. Cứ mười lăm hôm Bụt lại nói pháp thoại một lần tại
Jetavana, và các giới khất sĩ cũng như nữ khất sĩ từ các trung tâm khác đều được
tới tham dự. Pháp thoại của Bụt thường được nói vào buổi chiều, ngay sau giờ thọ
thực, vì vậy các vị khất sĩ từ những trung tâm xa, đến ngày có pháp thoại, phải
nghỉ khất thực để có thì giờ đi thẳng về tu viện. Các vị đại thích ở thủ đô cố
gắng sắp đặt để cúng dường thực phẩm cho các vị ngay khi các vị tới tu viện, để
các vị có đủ thời gian thọ thực và nghe pháp.
Pháp thoại đầu mà Bụt
nói trong mùa an cư năm nay có đề tài là hạnh phúc. Bụt dạy hạnh phúc là có thật
và ta có thể thực hiện được hạnh phúc ngay trong đời sống này nếu ta biết hành
theo chánh pháp.
Trước hết Bụt cho biết
hạnh phúc không phải là sự đam mê vào dục lạc. Dục lạc có thể cho con người một
ảo tưởng về hạnh phúc, nhưng thật sự chỉ là khổ đau. Người lấy ví dụ của một
người bị bệnh hủi, bị bắt buộc vào sống biệt lập ở trong rừng. Người này luôn
luôn cảm thấy ngứa ngáy xốn xang rất khó chịu. Ông ta đào một cái hố, chất cành
khô và những gốc cây mục xuống hố và đốt cháy cho đến khi hố đầy than hồng, rồi
ông ta đứng bên cạnh hố, đưa mình mẩy tay chân lên trên hố than để hứng lấy cái
nóng của than lửa đang cháy. Trong khi làm như thế ông ta thấy rất đã ngứa và cảm
thấy bớt khổ. Ngày nào không được hơ mình trên hố than rừng này, ông ta rất làm
đau khổ. May mắn cho ông ta, mấy năm sau bệnh hủi của ông được chữa lành. Ông
trở về sống đời sống bình thường trong thôn xóm. Một hôm ông ta vào rừng thấy mấy
người có bệnh hủi đang đưa mình mẩy của họ hơ trên hố than rừng của họ. Ông thấy
thương xót họ vô cùng. Hố than rừng nóng quá, tới gần ông chịu không nổi. Nếu
có ai tới trì kéo ông, bắt ông tới gần hố than để đưa mình mẩy hơ lên trên than
lửa, ông ta sẽ la tru tréo lên và phản đối kịch liệt. Cái mà ngày xưa ông cho
là làm cho ông sung sướng, bây giờ đã trở thành một mối khổ đau của ông. Bụt
nói: "Dục lạc cũng chỉ là một hố than hồng, chỉ có người bệnh mới thấy dục
lạc là vui, những người lành mạnh đều phải xa lánh hố than của dục lạc.”
Nếu đam mê dục lạc không phải là hạnh phúc thì cái gì là hạnh phúc? Bụt dạy: "Sống thư thái, tự do, tiếp xúc được với những mầu nhiệm của cuộc sống tức là có hạnh phúc, ý thức được những gì xảy ra trong giờ phút hiện tại; không tham đắm vào bất cứ pháp nào mà cũng không ghét bỏ bất cứ một pháp nào.” Người có hạnh phúc biết quý những gì mầu nhiệm đang xảy ra trong hiện tại; một làn gió mát, một buổi sáng đẹp trời, một bông hoa vàng, một cây trúc tím, một nụ cười của trẻ thơ, một bữa cơm ngon. Người có hạnh phúc biết thưởng thức những thứ ấy nhưng không bị ràng buộc vào những thứ ấy. Thấy được vạn pháp là vô thường và vô ngã. Người ấy không nhận thức các pháp như những gì có thường và có ngã, do đó người ấy không bị ràng buộc bởi các pháp kia, không bị tham đắm vào các pháp kia. Không bị ràng buộc, không tham đắm, người ấy sống thảnh thơi, không lo âu, không sợ hãi. Biết rằng một bông hoa có thể sớm nở tối tàn, người ấy thấy được tự tính sinh diệt vô thường của các pháp cho nên không vì sự sinh diệt của vạn pháp mà sầu khổ và lo âu. Cũng vì thế nên hạnh phúc của người ấy là hạnh phúc chân thật. Người ấy không lo âu và sợ hãi ngay cả về sự sinh diệt của chính mình.
Có người cho rằng muốn
có hạnh phúc trong tương lai thì phải chịu khổ trong hiện tại, vì vậy họ hy
sinh hiện tại bằng cách chịu khổ chịu cực, về tâm não cũng như về thể xác, để
mua lấy hạnh phúc trong tương lai.
Bụt dạy rằng sự sống
chỉ có mặt trong giây phút hiện tại, hy sinh hiện tại là phế bỏ sự sống. Có người
nghĩ muốn có an lạc và giải thoát trong tương lai thì phải hành hạ xác thân
trong hiện tại. Nghĩ như thế, họ áp dụng những phép tu khổ hạnh, chịu đói khát
và đau đớn trong thân xác và trong tâm tư, dùng khổ đau trong hiện tại, để mua
hạnh phúc trong tương lai. Bụt dạy lối tu hành đó không những làm cho người tu
chịu đau khổ trong hiện tại mà còn gây đau khổ trong tương lai nữa.
Có người cho rằng đời
sống quá ngắn ngủi, không nên nghĩ tới tương lai, phải tận lực hưởng thụ những
thú vui dục lạc ngay trong giờ phút hiện tại, Bụt dạy rằng tham đắm vào dục lạc
như thế cũng giống như nướng mình trên hố than rừng, hành động này đem lại khổ
đau ngay trong hiện tại và cho cả tương lai.
Phương pháp tu học của
Bụt vượt ra ngoài hai cách sống vừa kể. Bụt dạy rằng phép sống khôn ngoan nhất
là phép sống đem lại hạnh phúc trong hiện tại mà cũng sẽ đem lại hạnh phúc
trong tương lai.
Tu tập theo đạo giải
thoát không phải là ép xác khổ hạnh để cầu mong một hạnh phúc tương lai. Khi vị
khất sĩ ăn ngày một bữa, thực tập thiền tọa, thực tập thiền hành, thực tập Tứ
Niệm Xứ, thực tập Tứ Vô Lượng Tâm, thực tập phép Quán Niệm Hơi Thở, vị khất sĩ ấy
tạo hạnh phúc cho chính mình và cho những người xung quanh ngay trong giờ phút
hiện tại.
Ăn mỗi ngày một bữa
có thể giúp cho cơ thể nhẹ nhàng, có thể cho ta nhiều thì giờ hơn để tu tập, để
sống thoải mái và tự do, và để giúp ích cho người khác. Không lập gia đình,
không có vợ con không phải là một sự ép xác khổ hạnh mà cũng là để có thể sống
tự do và thoải mái để có thời gian tu tập và giúp ích cho kẻ khác.
Sống đời sống phạm hạnh,
người khất sĩ phải thấy được niềm vui và hạnh phúc trong giây phút của cuộc sống
hàng ngày. Nếu sống đời sống phạm hạnh mà thấy khổ đau, ép buộc, thiếu tự do,
đó là đã sống không đúng theo tinh thần chánh pháp. Nhìn vào một vị khất sĩ sống
đời sống phạm hạnh. Người ta phải thấy sự có mặt của sự thoải mái, sự thong
dong và niềm an lạc. Nếp sống này đem lại hạnh phúc trong hiện tại mà chắc chắn
cũng đem lại hạnh phúc trong tương lai.
Sau buổi pháp thoại,
nữ cư sĩ Punnalakkhana xin đến viếng Bụt. Bà là nội trợ của cư sĩ Sudatta Anathapindika,
người đã xây dựng tu viện Jetavana để cúng dường giáo đoàn khất sĩ. Nữ cư sĩ
báo tin cho Bụt biết là cư sĩ Sudatta bị ốm đã hơn mười hôm nay, và rất khổ đau
vì không đến dự được buổi pháp thoại này. Bệnh của cư sĩ càng ngày càng tăng chứ
không thấy giảm. Cư sĩ rất sợ sẽ không được nhìn thấy mặt Bụt trước khi qua đời.
Ngày hôm sau, Bụt đi
thăm cư sĩ Sudatta, cùng đi với người có hai đại đức Sariputta và Ananda, được
thấy Bụt và hai đại đức, cư sĩ mừng rỡ. Ông ngồi trên một chiếc ghế dựa, nét mặt
xanh xao, Bụt bảo:
- Sudatta, suốt đời
ông đã sống một cuộc sống có ý nghĩa và có hạnh phúc. Ông đã làm vơi nỗi khổ của
biết bao nhiêu người. Danh từ Anathapindika mà thiên hạ tặng cho ông là một
trong những bằng chứng lớn của sự thành công của ông. Tu viện Jetavana là một bằng
chứng lớn khác. Ông đã đóng góp thật nhiều để pháp âm của đạo giác ngộ được
truyền đi khắp chốn. Ông đã sống theo chánh pháp, đã tạo được hạnh phúc cho bản
thân, cho gia đình và cho rất nhiều người trong xã hội. Bây giờ ông nên tĩnh dưỡng,
tôi sẽ nhờ đại đức Sariputta thỉnh thoảng tới thăm ông và hướng dẫn sự tu học
cho ông. Ông không nên cố gắng để tìm
lên tu viện, bởi vì di chuyển như thế sẽ làm cho ông mất sức nhiều quá.
Cư sĩ Sudatta chắp
tay tạ ơn Bụt. Mười lăm hôm sau, vào giờ pháp thoại, Bụt nói về đời sống người
tại gia, về hạnh phúc chân thực mà người cư sĩ có thể thực hiện ngay trong đời
sống hiện tại.
Bụt ôn lại những
nguyên tắc sống "hạnh phúc trong hiện tại, hạnh phúc trong tương lai"
mà người đã diễn bày trong kỳ pháp thoại trước, rồi người nói:
- Vị khất sĩ sống đời
sống phạm hạnh là để có an lạc hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, và nếp sống
phạm hạnh ấy chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc hạnh trong tương lai, nhưng không phải
chỉ người xuất gia mới sống được theo nguyên tắc ấy. Những người cư sĩ sống ở
thành thị và trong xóm làng cũng có thể theo nguyên tắc ấy của chánh pháp mà
làm cho đời sống càng ngày càng có thêm hạnh phúc. Trước hết là đừng vì ước muốn
làm giàu mà chúi đầu vào công việc, bỏ mất cơ hội tạo hạnh phúc cho mình và cho
gia đình mình trong giờ phút hiện tại.
Hạnh phúc trước hết
là sự tỉnh thức. Một cái nhìn đầy hiểu biết, một nụ cười bao dung, một câu chuyện
nói thương yêu, một bữa cơm quây quầy trong đầm ấm và tỉnh thức... đó là hạnh phúc
trong hiện tại.
Nuôi dưỡng sự tỉnh thức
trong hiện tại, ta sẽ tránh không gây khổ đau cho ta và cho những người sống
chung quanh ta và bên cạnh ta. Bằng cái nhìn, bằng lời nói, bằng nụ cười, bằng những
cử chỉ săn sóc nhỏ, ta tạo ra hạnh phúc cho ta và cho mọi người ngay trong
giây phút hiện tại. Hạnh phúc này không cần đến giàu sang và danh vọng.
Bụt kể cho đại chúng
nghe câu chuyện của Sigala, một người gia chủ trẻ tuổi mà Bụt gặp ở thành phố
Rajagaha nhiều năm về trước. Buổi sáng nọ, khoác y, mang bát và rời tu viện
Trúc Lâm lúc trời mới rạng sáng. Người gặp một chàng trai tên Sigala, con của một
thương gia sống ở ngoại ô thành phố. Sigala đang đứng ở ngoài trời và đang cúi
lạy sáu phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Thượng và Hạ một cách cung kính.
Bụt tới gần và hỏi
chàng lạy như thế để làm gì, Sigala thưa là từ hồi còn bé, chàng đã được thân
phụ dạy mỗi buổi sáng phải ra lạy sáu phương. Chàng chỉ biết vâng lời cha, sáng
nào cũng ra lạy như thế, nhưng không biết để làm gì. Bụt nói: "Lạy như thế
là thực tập một lối sống có thể đưa tới hạnh phúc trong hiện tại và trong tương
lai.
Người dạy rằng lạy
phương Đông là để quán chiếu cách đối xử với ơn cha mẹ, lạy phương Nam là để
quán chiếu cách đối xử với ơn sư trưởng, lạy phương Tây là để quán chiếu cách đối
xử với tình vợ con, lạy phương Bắc là để quán chiếu cách đối xử với tình bè bạn,
lạy phương Hạ là để quán chiếu cách đối xử với người cộng sự, lạy phương Thượng
là để quán chiếu cách đối xử với những bậc hiền nhân.”
Bụt lại dạy Sigala về
phép thọ trì năm giới, phép quán chiếu để đừng vội vã hành động khi trong tâm
có tham dục, giận hờn, si mê và sợ hãi. Bụt dạy Sigala tránh xa sáu loại hành động
có thể đưa đến sự tán gia bại sản: không say sưa, không đi lang thang trong
thành phố vào giờ khuya khoắt, không lui tới những chốn cờ bạc, không lui tới những
nơi ăn chơi trác táng, không la cà với những bạn xấu và không lười biếng ỷ lại.
Bụt lại dạy cho
Sigala biết phân biệt thế nào là một người bạn tốt. Người nói:
- Một người bạn tốt
là một người đối xử với mình một cách chung thủy, khi mình giàu sang hoặc sa
sút, hạnh phúc hay khổ đau, thành công hay thất bại, đắc thế hoặc thất thế thì
người bạn ấy vẫn không hề thay đổi. Người bạn ấy biết lắng nghe và chia sẻ những
buồn đau của mình, nói cho mình nghe những lo lắng và buồn vui của người ấy. Một
người bạn tốt là một người bạn biết vui cái vui của mình và buồn cái buồn của
mình.
Kể xong chuyện
Sigala, Bụt nói:
- Hạnh phúc chân
thật là một điều có thể thực hiện ngay trong đời này nếu ta quy tụ được càng
nhiều càng tốt những điều kiện sau đây:
1. Được thân cận với những người hiền đức, có khả năng xa lánh
được những kẻ đang đi trên con đường sa đọa.
2. Được sống trong một môi trường thuận tiện cho sự tu học và sự
tạo tác những nhân lành.
3. Được có cơ hội thêm về giáo pháp, về giới luật, về công nghệ
và về ngôn ngữ văn chương.
4. Được phụng dưỡng mẹ cha và có thời giờ để ý săn sóc vợ chồng
con cái của mình.
5. Được chia sẻ thì giờ, tài vật và hạnh phúc với kẻ khác.
6. Được có cơ hội vun trồng đạo đức, xa lánh hẳn rượu chè cờ bạc.
7. Được thực tập un đúc các đức khiêm nhượng, biết ơn và tri túc
của đạo giác ngộ.
8. Được thân cận với các vị khất sĩ mà học hỏi đạo lý.
9. Được sống một cuộc sống trong sạch theo nguyên tắc Bốn Sự Thật.
10. Được học cách thiền quán để tháo bỏ những phiền não và ưu sầu
trong cuộc sống.
Tới đây, Bụt mở lời
khen những cư sĩ đã và đang sống theo chánh pháp trong cuộc sống hàng ngày,
trong gia đình và xã hội, Bụt đặc biệt nhắc tới cư sĩ Sudatta Anathapindika. Bụt
nói Sudatta là người đã quy tụ được nhiều điều kiện để làm cho đời sống có ý
nghĩa, có hạnh phúc và có lợi ích cho nhiều người. Đạo tâm của Sudatta rất lớn
và cuộc đời của Sudatta đã được hướng dẫn bởi những nguyên tắc của chánh pháp,
Bụt nhấn mạnh rằng có những người giàu có hơn Sudatta nhiều gấp bội, nhưng đứng
về phương diện hạnh phúc thì không thể nào so sánh được với Sudatta.
Hôm ấy nội trợ của cư
sĩ Sudatta là Punnalakkhana cũng có mặt trong buổi pháp thoại. Nghe Bụt nói, bà
cảm động đến rơi nước mắt, bà đứng dậy và tắc bạch:
- Thế Tôn, cuộc sống
của người cư sĩ có nhiều khi thật bận rộn, nhất là khi mình được thừa hưởng một
gia sản lớn. Con thấy khi mình có một cơ nghiệp bình thường, sự tu đạo sẽ dễ
dàng hơn. Nhiều khi nhìn những vị khất sĩ không nhà, không cửa, không vợ, không
con, cầm một chiếc bình bát, đi thong dong trên nẻo đường khất thực, chúng con
thấy thèm muốn sự thảnh thơi ấy một cách lạ kỳ. Chúng con ước muốn được sống
như thế, nhưng mà chúng con có nhiều sợi dây ràng buộc quá, biết làm sao?
Bụt dạy:
- Nữ cư sĩ
Punnalakkana! Vị khất sĩ cũng có nhiều trách nhiệm chứ không phải không. Nếp sống
phạm hạnh là nếp sống buộc vị khất sĩ phải an trú ngày đêm trong chánh niệm,
trong giới luật. Người khất sĩ lại còn phải nghĩ đến trách nhiệm độ sinh. Các vị
cư sĩ! Như Lai đã tìm ra một phương cách để quý vị có thể lâu lâu, hoặc nửa
tháng một lần, được sống giống như các vị khất sĩ. Phương cách đó là Bát Quan
Trai giới. Các vị có thể đến chùa thọ tám giới, sống trong thời gian trọn vẹn một
ngày một đêm, ngày ăn một bữa, thực tập thiền tọa, thiền hành, sống trong phạm
hạnh, tỉnh thức, tinh cần, thong dong và an lạc, giống hệt như các vị khất sĩ.
Sau thời gian một ngày, một đêm sống như thế, các vị lại xả giới và trở về đời
sống thế gian, chỉ giữ lại năm giới và ba sự quay về nương tựa.
Các vị khất sĩ! Như
Lai sẽ báo tin để tất cả các vị khất sĩ biết về pháp chế Bát Quan Trai này. Quý
vị có thể tổ chức tu tập Bát Quan Trai tại chùa hay ngay trong nhà quý vị, và
các vị khất sĩ có thể được mời để tuyên giới, hướng dẫn và dạy dỗ trong các ngày
tu Bát Quan Trai.
Punnalakkhana sung sướng
hỏi Bụt:
- Bạch Thế Tôn, tám
giới của pháp chế Bát Quan Trai là tám giới nào, tại sao gọi là quan, tại sao gọi
là trai, xin Thế Tôn khai thị cho chúng đệ tử biết.
- Tám giới là: không
sát hại sinh mạng, không trộm cướp, không dâm dục, không vọng ngữ, không uống
rượu, không trang sức, không nằm và ngồi trên giường chiếu sang trọng và không
sử dụng tiền bạc. Tám giới ấy là để phòng ngừa sự phát sinh của vọng niệm và tạp
niệm trong thời gian tu tập nên gọi là quan. Quan có nghĩa là phòng ngừa, còn
trai có nghĩa là chỉ ăn một bữa trước giờ ngọ, để có thì giờ tu tập.
Được biết thiết chế
phép Bát Quan Trai, giới cư sĩ hôm ấy rất lấy làm sung sướng.
Mười hôm sau, người
nhà của cư sĩ Sudatta tới tìm đại đức Sariputta, báo tin là bệnh tình của cư sĩ
trở nặng. Đại đức Sariputta rủ đại đức Ananda cùng đi. Cư sĩ Sudatta nằm trên
giường bệnh để tiếp hai vị đại đức. Người nhà nhắc ghế để hai đại đức ngồi gần
bên giường. Biết cư sĩ không sống được bao nhiêu ngày nữa, đại đức Sariputta khai
thị:
- Cư sĩ Sudatta, ông
nên quán tưởng như sau: mắt, không phải là tôi, tai không phải là tôi, mũi, lưỡi
thân cũng không phải là tôi.
Đợi cư sĩ quán tưởng
xong, đại đức nói:
- Cư sĩ tiếp tục quán
tưởng; những gì tôi thấy không phải là tôi, những gì tôi nghe không phải là
tôi, những gì tôi ngửi, nếm, xúc chạm cũng không phải là tôi.
Rồi đại đức dạy cho
cư sĩ quán chiếu vô ngã trong sáu thức: cái thấy không phải là tôi, cái nghe
không phải là tôi, tri giác, vị giác, xúc giác và ý thức cũng không phải là
tôi. Đại đức nói:
- Sáu căn, sáu trần
và sáu thức không phải là tôi. Sáu đại là đất, nước, lửa, gió, không gian và
tâm thức cũng không phải là tôi. Tôi không bị ràng buộc và hạn cuộc trong những
yếu tố ấy. Tôi không bị sinh tử ràng buộc và hạn chế. Sinh tử không chạm được tới
tôi. Tôi mỉm cười, bởi vì tôi không sinh cũng không diệt. Sinh không làm cho
tôi có, tử không làm cho tôi không.
Thực tập tới đó, cư
sĩ Sudatta khóc. Nước mắt chảy ràn rụa trên hai má ông.
Đại đức Ananda hỏi:
- Sao, cư sĩ có tiếc
nuối không, cư sĩ quán chiếu không thành công hả?
- Thưa đại đức,
Ananda, con không tiếc nuối, con quán chiếu rất thành công. Con khóc vì con cảm
động quá. Con được phụng sự Bụt và gần gũi các vị khất sĩ đã hơn ba mươi năm
nay, vậy mà chưa bao giờ con được nếm giáo lý thậm thâm vi diệu như hôm nay.
- Cư sĩ Sudatta, giáo
lý này các vị khất sĩ và nữ khất sĩ được nghe đức Thế Tôn giảng dạy luôn.
- Thưa đại đức
Ananda, đệ tử của cư sĩ chúng con có người cũng có thể nghe, hiểu và hành được
giáo lý thậm thâm này. Xin đại đức Ananda bạch với Bụt để người cho phép giới
cư sĩ chúng con được nghe, hiểu và thực hành giáo lý thậm thâm đó.
Cư sĩ Sudatta từ trần
ngay buổi chiều hôm ấy. Các đại đức Sariputta và Ananda đã ở lại hộ niệm rất
lâu cho cư sĩ.
Gia đình của cư sĩ
Anathapindika là một gia đình cư sĩ kiểu mẫu. Tất cả mọi người trong gia đình từ
cha mẹ đến con cái, người nào cũng có đức tin vững chãi nơi Bụt, người nào cũng
siêng năng học hỏi giáo lý và đem áp dụng vào cuộc đời. Trước đây mấy hôm, cư
sĩ được biết tin rằng con gái út của mình là Sumagadha, lấy chồng ở xứ Anga, đã
hóa độ được rất nhiều dân chúng trong vùng theo Bụt. Chồng của cô trước đó là một
vị quan tổng trấn ở xứ Anga, tín đồ của phái du sĩ lõa hình. Lần đầu được chồng
ép đi thăm các vị du sĩ này, cô đã khéo léo từ chối. Với sự hiểu biết vững vàng
về đạo Bụt, cô đã từ từ cảm hóa được quan tổng trấn và mang được giáo lý Bụt
vào đời sống của dân chúng trong vùng.
0 Đánh giá