Read more
(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)
Sách Của Những Bí Mật (Tập 1) – Osho
Chương 11. Những Kỹ Thuật Thâm Nhập Vào Các Trung Tâm Nội Tại
Nghe hoặc Tải MP3 'Sách Của Những Bí Mật (Tập 1)' ê
15. Đóng bẩy lỗ hổng trên đầu bằng tay, không gian giữa hai mắt
ông trở thành bao hàm tất cả.
16. Người phúc lạc, khi các giác quan được hấp thu vào trong
tâm, đạt tới trung tâm hoa sen.
17. Tâm trí không để ý, giữ ở giữa - tới cùng.
Con người dường như
người đó đang trong vòng tròn mà không có trung tâm. Cuộc sống của người đó là
trên bề mặt; cuộc sống của người đó chỉ ở chu vi. Bạn sống ở bên ngoài, bạn
không bao giờ sống bên trong. Bạn không thể sống bên trong được, chừng nào
trung tâm chưa được tìm ra. Bạn không thể sống được bên trong, thực sự bạn
không có bên trong. Bạn là bên ngoài không có trung tâm, bạn chỉ có bên ngoài.
Đó là lí do tại sao chúng ta liên tục nói về bên trong, về cách đi vào trong,
cách biết bản thân mình, cách xuyên thấu vào trong, nhưng những lời này không
mang bất kì nghĩa đích thực nào. Bạn biết nghĩa của các lời, nhưng bạn không thể
cảm thấy điều chúng ngụ ý vì bạn không bao giờ ở trong. Bạn không bao giờ ở bên
trong.
Ngay cả khi bạn một
mình, trong tâm trí bạn vẫn trong đám đông. Khi không ai có đó bên ngoài, dầu vậu
bạn vẫn không ở bên trong. Bạn liên tục nghĩ về người khác; bạn liên tục di
chuyển hướng ra ngoài. Ngay cả trong khi ngủ bạn đang mơ về người khác, bạn
không ở bên trong. Chỉ trong giấc ngủ rất say, khi không có mơ, bạn mới ở bên
trong; nhưng thế thì bạn trở thành vô ý thức. Nhớ sự kiện này: khi bạn có ý thức
bạn không bao giờ ở bên trong, và khi bạn ở bên trong trong giấc ngủ sâu bạn trở
thành vô ý thức. Cho nên toàn thể ý thức của bạn bao gồm cái bên ngoài. Và bất
kì khi nào chúng ta nói về đi vào bên trong, những lời này được hiểu nhưng
nghĩa thì không - vì nghĩa không được mang bởi lời, nghĩa tới từ kinh nghiệm.
Lời là không có
nghĩa. Khi tôi nói ‘bên trong’, bạn hiểu lời này - nhưng chỉ lời thôi, không hiểu
nghĩa. Bạn không biết bên trong là cái gì, vì một cách có ý thức bạn không bao
giờ ở bên trong. Tâm trí bạn thường xuyên đi ra. Bạn không có bất kì cảm giác
nào về cái bên trong nghĩa là gì hay nó là gì.
Đó là điều tôi ngụ ý
khi tôi nói rằng bạn là vòng tròn không có tâm - chỉ là chu vi. Trung tâm là ở
kia, nhưng bạn rơi vào trong nó chỉ khi bạn không có ý thức. Ngoài ra, khi bạn
có ý thức bạn di chuyển ra ngoài, và vì điều này cuộc sống của bạn không bao giờ
mãnh liệt; nó không thể thế được. Nó chỉ hờ hững. Bạn sống dường như chết, hay
cả hai đồng thời. Bạn sống kiểu chết - sống cuộc sống tựa chết. Bạn tồn tại ở mức
tối thiểu - không ở đỉnh tối đa, nhưng ở mức tối thiểu. Bạn có thể nói,
"Tôi hiện hữu," có vậy thôi. Bạn không chết; đó là điều bạn ngụ ý bởi
việc là sống.
Nhưng sống không bao
giờ có thể được biết tới ở chu vi. Sống chỉ có thể được biết tới ở trung tâm.
Trên chu vi chỉ sống hờ hững là có thể. Cho nên thực sự, bạn sống cuộc sống rất
không đích thực, và thế thì ngay cả chết cũng trở thành không đích thực - vì
người đã không thực sự sống thì không thể thực sự chết. Chỉ sống đích thực mới
có thể trở thành chết đích thực. Thế thì chết là đẹp: bất kì cái gì đích thực đều
đẹp. Ngay cả sống, nếu nó không đích thực, nhất định là xấu. Và sống của bạn là
xấu, chỉ mục ruỗng. Không cái gì xảy ra. Bạn đơn giản liên tục chờ đợi, hi vọng
rằng cái gì đó sẽ xảy ra ở đâu đó, vào ngày nào đó.
Tại chính khoảnh khắc
này chỉ có trống rỗng, và mọi khoảnh khắc đều đã giống điều đó trong quá khứ -
chỉ trống rỗng. Bạn chỉ chờ đợi tương lai, hi vọng rằng cái gì đó sẽ xảy ra
ngày nào đó, chỉ hi vọng. Thế thì mọi khoảnh khắc đều bị mất. Nó đã không xảy
ra trong quá khứ, cho nên nó sẽ không xảy ra trong tương lai nữa. Nó chỉ có thể
xảy ra trong khoảnh khắc này, nhưng thế thì bạn sẽ cần sự mãnh liệt, mãnh liệt
xuyên thấu. Thế thì bạn sẽ cần được bắt rễ trong trung tâm. Thế thì ngoại vi sẽ
không có tác dụng. Thế thì bạn sẽ phải tìm ra khoảnh khắc của bạn. Thực sự,
chúng ta không bao giờ nghĩ về chúng ta là gì, và bất kì cái gì chúng ta nghĩ
chỉ là lời nói vớ vẩn vô nghĩa.
Một lần tôi sống cùng
một ông giáo sư trong khuôn viên đại học. Một hôm ông ấy tới và ông ấy rất bối
rối, cho nên tôi hỏi, "Có chuyện gì vậy?"
Ông ấy nói, "Tôi
cảm thấy sốt."
Tôi đang đọc cái gì
đó, cho nên tôi nói với ông ấy, "Ông đi ngủ đi. Đắp chăn này và nghỉ
ngơi."
Ông ấy lên giường,
nhưng sau vài phút ông ấy nói, "Không, tôi không sốt. Thực sự, tôi giận.
Ai đó đã xúc phạm tôi, và tôi cảm thấy nhiều bạo hành chống lại anh ta."
Thế là tôi nói,
"Sao ông nói rằng ông cảm thấy sốt?"
Ông ấy nói, "Tôi
đã không thể nhận ra sự kiện rằng tôi đã giận, nhưng thực sự tôi đang giận.
Không có sốt." Ông ấy tung chăn ra.
Thế rồi tôi nói,
"Được, nếu ông giận thế thì cầm lấy cái gối này. Đánh nó và bạo hành với
nó đi. Để cho bạo hành của ông được xả ra. Và nếu gối này không đủ, thì tôi sẵn
đây. Ông có thể đánh tôi, và để cơn giận này được tống ra."
Ông ấy cười, nhưng tiếng
cười là giả - chỉ được tô vẽ trên mặt ông ấy. Nó tới trên mặt ông ấy và thế rồi
biến mất, nó không bao giờ xuyên thấu vào trong. Nó không bao giờ tới từ bên
trong; nó chỉ là nụ cười tô vẽ. Nhưng tiếng cười này, ngay cả tiếng cười giả,
đã tạo ra kẽ hở. Ông ấy nói, "Không thực sự... tôi không thực sự giận. Ai
đó đã nói cái gì đó trước những người khác, và tôi cảm thấy rất ngượng. Thực sự,
đây mới là câu chuyện."
Thế là tôi nói cho
ông ấy, "Ông đã đổi phát biểu của ông về cảm giác riêng của ông ba lần
trong vòng nửa giờ. Ông đã nói ông cảm thấy sốt, thế rồi ông nói ông giận, và
giờ ông nói rằng ông không giận nhưng ngượng. Cái nào là thực?"
Ông ấy nói, "Thực
sự, tôi ngượng."
Tôi nói, "Cái
nào? Khi ông nói ông sốt, ông cũng đã chắc chắn về điều đó. Khi ông nói ông giận,
ông cũng đã chắc chắn về điều đó. Và ông cũng chắc chắn về điều này. Ông là một
người hay nhiều người? Sự chắc chắn này sẽ tiếp tục được bao lâu?"
Thế là người này nói,
"Thực sự, tôi không biết tôi cảm thấy cái gì. Nó là cái gì, tôi không biết.
Tôi đơn giản bị bối rối. Liệu gọi nó là giận hay ngượng hay cái gì, tôi không
biết. Và đây không phải là lúc để thảo luận điều đó với tôi." Ông ấy nói,
"Để tôi một mình đi. Ông đã làm cho tình huống của tôi thành triết lí. Ông
đang thảo luận cái gì là thực, cái gì là đích thực còn tôi đang cảm thấy rất bối
rối."
Điều này không chỉ xảy
ra cho người khác nào đó - X, Y hay Z - nó là cho bạn. Bạn không bao giờ chắc
chắn được, vì sự chắc chắn tới từ việc được định tâm. Bạn thậm chí không chắc
chắn về bản thân bạn. Không thể nào chắc chắn được về người khác khi bạn không
bao giờ chắc chắn về bản thân bạn. Chỉ có mơ hồ, không rõ ràng; không cái gì chắc
chắn.
Ai đó đã ở đây mới mấy
ngày trước, và anh ta nói với tôi, "Tôi đang yêu ai đó, và tôi muốn cưới
cô ấy." Tôi nhìn vào mắt anh ta thật sâu trong vài phút mà không nói cái
gì. Anh ta trở nên bồn chồn và anh ta nói, "Sao thầy nhìn tôi? Tôi cảm thấy
lúng túng thế." Tôi tiếp tục nhìn. Anh ta nói, "Thầy nghĩ rằng tình
yêu của tôi là giả sao?" Tôi chẳng nói gì, tôi chỉ tiếp tục nhìn. Anh ta
nói, "Sao thầy cảm thấy rằng hôn nhân này sẽ không tốt?" Anh ta tự
nói, "Tôi đã không thực sự nghĩ về nó rất nhiều, và đó là lí do tại sao
tôi đã tới thầy. Thực sự, tôi không biết liệu tôi đang trong yêu hay
không."
Tôi đã không nói một
lời. Tôi chỉ nhìn vào mắt anh ta. Nhưng anh ta trở nên bối rối, và mọi thứ ở
bên trong bắt đầu ló ra, trồi ra.
Bạn không chắc chắn,
bạn không thể chắc chắn được về bất kì cái gì; không chắc về yêu của bạn, không
chắc về ghét của bạn, không chắc về tình bạn của bạn. Không có gì mà bạn có thể
chắc chắn được vì bạn không có trung tâm. Không có trung tâm không có chắc chắn.
Mọi cảm giác của bạn về tính chắc chắn đều là giả và nhất thời. Khoảnh khắc này
bạn sẽ cảm thấy rằng bạn chắc chắn, nhưng khoảnh khắc tiếp sự chắc chắn đó sẽ
đi mất vì trong từng khoảnh khắc bạn có trung tâm khác. Bạn không có trung tâm
thường hằng, trung tâm được kết tinh. Từng khoảnh khắc đều là trung tâm nguyên
tử, cho nên từng khoảnh khắc có cái ra riêng của nó.
George Gurdjieff hay
nói rằng con người là đám đông. Nhân cách chỉ là lừa dối vì bạn không là một
người, bạn là nhiều người. Cho nên khi người này nói trong bạn, đó là trung tâm
nhất thời. Khoảnh khắc tiếp có người khác. Với mọi khoảnh khắc, với mọi tình huống
nguyên tử, bạn cảm thấy chắc chắn, và bạn không bao giờ trở nên nhận biết rằng
bạn chỉ là một luồng - nhiều con sóng không có trung tâm nào. Thế thì đến cuối
bạn sẽ cảm thấy rằng cuộc sống đã chỉ là việc phí hoài. Nó nhất định là vậy. Chỉ
có phí hoài, chỉ lang thang - vô mục đích, vô nghĩa.
Mật Tông, yoga, tôn
giáo... mối quan tâm cơ bản của họ là làm sao đầu tiên khám phá ra trung tâm,
làm sao đầu tiên là cá nhân. Họ quan tâm tới làm sao tìm ra trung tâm mà còn lại
trong mọi tình huống. Thế rồi, khi cuộc sống liên tục di chuyển bên ngoài, như
một luồng sống tiếp diễn mãi, như các con sóng tới và đi, trung tâm này vẫn còn
mãi bên trong. Thế thì bạn vẫn còn là một - được bắt rễ, được định tâm.
Những kinh này là các
kĩ thuật để tìm ra trung tâm này. Trung tâm này đã có đó rồi, vì không có khả
năng là vòng tròn mà không có trung tâm. Vòng tròn có thể tồn tại chỉ với một
trung tâm, cho nên trung tâm này chỉ bị quên lãng. Nó có đó, nhưng chúng ta không
nhận biết. Nó có đó, nhưng chúng ta không biết cách nhìn vào nó. Chúng ta không
biết cách hội tụ ý thức vào nó.
Kĩ thuật thứ ba về định tâm:
Đóng bẩy lỗ hổng trên đầu bằng tay, không gian giữa hai mắt ông
trở thành bao hàm tất cả.
Đây là một trong những
kĩ thuật cổ nhất - được dùng rất nhiều, và là một trong những kĩ thuật đơn giản
nhất nữa. Đóng mọi lỗ hổng của đầu - mắt, tai, mũi, mồm. Khi tất cả lỗ hổng của
đầu bị đóng lại, tâm thức bạn, mà liên tục chảy ra, được dừng lại tức khắc: nó
không thể di chuyển ra ngoài.
Bạn có thể đã không
quan sát, nhưng ngay cả bạn dừng thở trong một khoảnh khắc, đột nhiên tâm trí bạn
sẽ dừng lại - vì với việc thở tâm trí tiếp tục di chuyển. Đó là việc tạo điều
kiện cho tâm trí. Bạn phải hiểu ‘tạo điều kiện’ ngụ ý gì, chỉ thế lời kinh này
sẽ dễ hiểu.
Pavlov, một trong những
nhà tâm lí học Nga nổi tiếng nhất, đã tạo ra thuật ngữ này "tạo điều kiện"
- hay "phản xạ có điều kiện" - một từ thường ngày được dùng khắp thế
giới. Những người quen thuộc với tâm lí thậm chí ít biết tới từ này.
Hai quá trình ý nghĩ
- bất kì hai quá trình nào - cũng có thể trở nên được liên kết tới mức nếu bạn
bắt đầu quá trình này, quá trình kia cũng được lẩy cò.
Đây là ví dụ nổi tiếng
của Pavlov. Pavlov làm việc với chó. Ông ấy thấy rằng nếu bạn để thức ăn chó ra
trước chó, nước dãi nó bắt đầu chảy ra. Lưỡi chó thè ra và nó bắt đầu sẵn sàng,
chuẩn bị để ăn. Điều này là tự nhiên. Khi nó thấy thức ăn, hay thậm chí tưởng
tượng thức ăn, nước dãi bắt đầu chảy ra. Nhưng Pavlov đã tạo điều kiện cho quá
trình này với quá trình khác. Bất kì khi nào nước dãi sẽ chảy ra và thức ăn có
đó, ông ấy sẽ làm những điều khác. Chẳng hạn, ông ấy sẽ rung chuông, và chó sẽ
nghe tiếng chuông kêu. Trong mười lăm ngày, bất kì khi nào thức ăn được đặt ra,
chuông sẽ rung. Thế rồi ngày thứ mười sáu thức ăn không được đặt ra trước cho,
chỉ chuông được rung. Nhưng dầu vậy nước dãi bắt đầu chảy ra và lưỡi thè ra, dường
như thức ăn có đó.
Nhưng không có thức
ăn, chỉ có tiếng chuông rung. Không có liên kết tự nhiên giữa chuông rung và nước
dãi, liên kết tự nhiên là với thức ăn. Nhưng bây giờ việc rung chuông liên tục
đã trở nên được liên kết với nó, và ngay cả việc rung chuông sẽ bắt đầu quá
trình nước dãi.
Theo Pavlov - và ông ấy
đúng - toàn thể cuộc sống của chúng ta là quá trình tạo điều kiện, ước định.
Tâm trí là việc ước định. Vậy, nếu bạn dừng cái gì đó trong việc ước định, mọi
thứ được liên kết khác cũng dừng.
Chẳng hạn, bạn chưa
bao giờ nghĩ mà không thở. Suy nghĩ bao giờ cũng là cùng với việc thở. Bạn
không ý thức tới việc thở, nhưng việc thở có đó liên tục, cả ngày lẫn đêm. Mọi
ý nghĩ, mọi quá trình suy nghĩ đều được liên kết với việc thở. Nếu bạn dừng việc
thở một cách bất thần, ý nghĩ cũng sẽ dừng lại. Và nếu cả bẩy lỗ - bẩy chỗ mở của
đầu - bị đóng lại, ý thức của bạn đột nhiên không thể di chuyển ra ngoài. Nó vẫn
còn ở trong, và việc còn ở trong đó tạo ra không gian giữa bạn và mắt bạn.
Không gian đó được biết là con mắt thứ ba.
Nếu mọi lỗ hổng của đầu
bị đóng lại bạn không thể di chuyển được ra ngoài, vì bạn bao giờ cũng di chuyển
ra ngoài từ các lỗ hổng này. Bạn vẫn còn ở trong, và với ý thức của bạn vẫn còn
ở trong nó trở nên được tập trung vào giữa hai mắt này, giữa hai mắt thường
này. Nó vẫn còn ở giữa hai mắt này, được hội tụ. Điểm đó được biết là con mắt
thứ ba.
Không gian này trở
thành bao hàm tất cả. Kinh này nói rằng trong không gian này mọi thứ đều được
bao hàm; toàn thể sự tồn tại được bao hàm. Nếu bạn có thể cảm thấy không gian
này, bạn đã cảm thấy tất cả. Một khi bạn có thể cảm thấy bên trong không gian
này giữa hai con mắt, thế thì bạn đã biết sự tồn tại, tính toàn bộ của nó, vì
không gian bên trong này là bao hàm tất cả. Không cái gì bị bỏ ra khỏi nó.
Upanishads nói,
"Biết cái một, cái một biết tất cả." Hai mắt này chỉ có thể nhìn cái
hữu hạn. Con mắt thứ ba nhìn cái vô hạn. Hai mắt này chỉ có thể thấy vật chất.
Con mắt thứ ba thấy cái phi vật chất, tâm linh. Với hai mắt này bạn không bao
giờ có thể cảm thấy năng lượng, bạn không bao giờ có thể thấy năng lượng; bạn
chỉ có thể thấy vật chất. Nhưng với con mắt thứ ba, năng lượng như vậy là thấy
được.
Việc đóng lại các lỗ
hổng này là cách định tâm, vì một khi luồng ý thức không thể chảy ra, nó vẫn
còn ở nguồn của nó. Nguồn ý thức đó là con mắt thứ ba. Nếu bạn được định tâm ở
con mắt thứ ba, nhiều thứ xảy ra. Điều thứ nhất là khám phá ra rằng toàn thế giới
là bên trong bạn.
Swami Ramateertha thường
nói rằng "Mặt trời di chuyển trong ta, sao di chuyển trong ta, trăng mọc
trong ta. Toàn thể vũ trụ ở trong ta." Khi ông ấy nói điều này lần đầu
tiên, các đệ tử của ông ấy tưởng ông ấy đã phát rồ. Làm sao sao có thể ở trong
Ramateertha được?
Ông ấy đã nói về con
mắt thứ ba, không gian bên trong. Khi lần đầu tiên không gian bên trong trở nên
được chói sáng, đây là cảm giác đó. Khi bạn thấy rằng mọi thứ là ở trong bạn, bạn
trở thành vũ trụ.
Con mắt thứ ba không
phải là một phần của thân thể vật lí của bạn. Không gian giữa hai mắt chúng ta
không phải là không gian được chứa trong thân thể bạn. Nó là không gian vô hạn
đã xuyên thấu vào trong bạn. Một khi không gian này được biết tới, bạn sẽ không
bao giờ là cùng con người trước nữa. Khoảnh khắc bạn biết không gian bên trong
này, bạn đã biết cái bất tử. Thế thì không có chết.
Khi bạn biết không
gian này lần đầu tiên, cuộc sống của bạn sẽ là đích thực, mãnh liệt, lần đầu
tiên thực sự sống. Bây giờ không an ninh nào được cần, bây giờ không sợ nào là
có thể có. Bây giờ bạn không thể bị chết. Bây giờ không cái gì có thể bị lấy đi
khỏi bạn. Bây giờ toàn thể vũ trụ thuộc về bạn: bạn là vũ trụ. Những người đã
biết tới không gian bên trong này, họ đã kêu lên trong cực lạc, "Aham
Brahmasmi! Ta là vũ trụ, ta là sự tồn tại."
Nhà huyền bí người
Sufi, Mansoor đã bị sát hại chỉ bởi vì kinh nghiệm này về con mắt thứ ba. Khi lần
đầu tiên ông ấy trở nên nhận biết về không gian bên trong này, ông ấy bắt đầu
kêu lên, "Ta là Thượng đế!" Ở Ấn Độ ông ấy chắc đã được tôn thờ, vì
người Ấn Độ đã biết nhiều, nhiều người đã đi tới biết không gian bên trong này
của con mắt thứ ba.
Nhưng ở một nước Mô
ha mét giáo điều đó là khó khăn. Và phát biểu của Mansoor rằng "Ta là Thượng
đế - ana'l hak!" - đã bị coi là cái gì đó phản tôn giáo, vì Mô ha mét giáo
không thể quan niệm được rằng người và Thượng đế có thể trở thành một. Con người
là con người - được sáng tạo ra - và Thượng đế là đấng sáng tạo, cho nên làm
sao người được sáng tạo có thể trở thành đấng sáng tạo được? Cho nên phát biểu
này của Mansoor's, "Ta là Thượng đế," không thể được hiểu; do vậy,
ông ấy đã bị sát hại. Nhưng khi ông ấy bị sát hại, bị giết, ông ấy đã cười. Cho
nên ai đó hỏi, "Tại sao ông cười, Mansoor?"
Mansoor tương truyền
đã nói, "Ta cười vì các ông không giết ta, và các ông không thể giết được
ta. Các ông bị lừa bởi thân thể này, nhưng ta không là thân thể này. Ta là đấng
sáng tạo của vũ trụ này, và chính ngón tay của ta di chuyển toàn thể vũ trụ này
từ lúc bắt đầu."
Ở Ấn Độ ông ấy chắc
đã được hiểu dễ dàng. Ngôn ngữ này đã từng được biết tới trong nhiều thế kỉ.
Chúng ta đã biết rằng một khoảnh khắc tới khi không gian bên trong được biết.
Thế thì người ta đơn giản phát điên. Và việc nhận ra này là chắc chắn tới mức
cho dù bạn giết một Mansoor ông ấy sẽ không thay đổi phát biểu của mình - vì thực
sự, bạn không thể giết được ông ấy khi có liên quan tới ông ấy. Bây giờ ông ấy
đã trở thành cái toàn thể. Không có khả năng nào phá huỷ ông ấy.
Sau Mansoor, người
Sufis biết rằng điều tốt hơn cả là im lặng. Cho nên trong truyền thống Sufi,
sau Mansoor, điều đã được nhất quán dạy cho đệ tử là, "Bất kì khi nào ông
đi tới con mắt thứ ba, vẫn còn im lặng và không nói gì. Bất kì khi nào điều này
xảy ra, thế thì giữ yên tĩnh đi. Không nói bất kì cái gì, hay chỉ liên tục nói
một cách chính thức những điều mọi người tin."
Cho nên Hồi giáo bây
giờ có hai truyền thống. Một truyền thống chỉ là bình thường, hướng ra ngoài,
công truyền; truyền thống kia, Hồi giáo thực, là Sufi giáo - bí truyền. Nhưng
người Sufi vẫn còn im lặng, vì từ Mansoor họ đã biết rằng nói trong ngôn ngữ
đó, cái tới khi con mắt thứ ba mở ra là gây khó khăn không cần thiết - và điều
đó không giúp người nào.
Lời kinh này nói:
Đóng bẩy lỗ hổng trên
đầu bằng tay, không gian giữa hai mắt ông trở thành bao hàm tất cả.
Không gian bên trong
của bạn trở thành tất cả không gian này.
Kĩ thuật thứ tư:
Người phúc lạc, khi các giác quan được hấp thu vào trong tâm, đạt
tới trung tâm hoa sen.
Từng kĩ thuật là hữu
dụng cho kiểu tâm trí nào đó. Kĩ thuật chúng ta đã thảo luận, kĩ thuật thứ ba -
đóng các lỗ hổng của đầu - có thể được nhiều người dùng. Nó rất đơn giản và
không rất nguy hiểm. Bạn có thể dùng nó rất dễ dàng, và cũng không có nhu cầu
đóng các lỗ hổng bằng tay của bạn. Việc đóng được cần, cho nên bạn có thể dùng
cái nút tai và bạn có thể dùng cái che mắt. Điều thực là đóng các lỗ hổng của đầu
bạn hoàn toàn trong vài khoảnh khắc - trong vài khoảnh khắc hay trong vài giây.
Thử nó đi. Đừng thực hành nó - chỉ bất thần nó giúp ích. Khi nó là bất thần nó
giúp ích. Khi đang nằm trên giường, bất thần đóng mọi lỗ hổng trong vài giây,
và nhìn cái gì đang xảy ra bên trong.
Khi bạn cảm thấy ngạt,
tiếp tục - chừng nào nó trở trở thành tuyệt đối không thể thở được, vì việc thở
sẽ bị đóng lại. Tiếp tục, chừng nào nó chưa trở thành tuyệt đối không thể thở
được. Và khi nó là tuyệt đối không thể thở được, bạn sẽ không có khả năng đóng
các lỗ hổng thêm nữa, cho nên bạn không cần lo nghĩ. Lực bên trong sẽ ném mọi lỗ
hổng thành mở. Cho nên khi có liên quan tới bạn, vẫn tiếp tục. Khi ngạt thở tới,
đó là khoảnh khắc - vì ngạt thở sẽ phá vỡ các liên kết cũ. Nếu bạn có thể tiếp
tục trong vài khoảnh khắc nữa, nó sẽ là tốt. Điều đó sẽ là khó và gian nan, và
bạn sẽ cảm thấy rằng bạn sắp chết - nhưng đừng sợ, vì bạn không thể chết được.
Bạn không thể chết chỉ bởi việc đóng các lỗ hổng. Nhưng khi bạn cảm thấy bây giờ
bạn sắp chết, đó là khoảnh khắc.
Nếu bạn có thể kiên
trì trong khoảnh khắc đó, đột nhiên mọi thứ sẽ được chói sáng. Bạn sẽ cảm thấy
không gian bên trong liên tục lan rộng, và cái toàn thể được bao gồm trong nó.
Thế rồi mở các lỗ hổng ra. Tiếp tục thử điều đó lặp đi lặp lại. Bất kì khi nào
bạn có thời gian, thử nó. Nhưng không thực hành nó. Bạn có thể thực hành dừng
hơi thở trong vài khoảnh khắc. Nhưng thực hành sẽ không giúp ích, cái giật bất
thần được cần. Trong cái giật đó, việc chảy vào các kênh ý thức cũ của bạn dừng
lại, và một thứ mới trở thành có thể.
Nhiều người thực hành
điều này ngay cả ngày nay - nhiều người trên khắp Ấn Độ. Nhưng họ thực hành nó,
và nó là phương pháp bất thần. Nếu bạn thực hành, thế thì không cái gì sẽ xảy
ra. Nếu tôi ném bạn ra khỏi phòng này một cách bất thần, ý nghĩ của bạn sẽ dừng
lại. Nhưng nếu chúng ta thực hành nó hàng ngày, thế thì không cái gì sẽ xảy ra.
Nó sẽ trở thành thói quen máy móc. Cho nên không thực hành nó. Chỉ thử nó bất
kì khi nào bạn có thể. Thế rồi đột nhiên, dần dần, bạn sẽ trở nên nhận biết về
không gian bên trong. Không gian bên trong đó chỉ tới với ý thức của bạn khi bạn
ở trên bờ vực của chết. Khi bạn cảm thấy, "Bây giờ mình không thể tiếp tục
một khoảnh khắc được; bây giờ chết là gần," đó là đúng khoảnh khắc. Kiên
trì đi! Đừng sợ. Chết không dễ thế. Ít nhất mãi cho tới giờ không một người nào
đã chết khi dùng phương pháp này.
Có an ninh dựng sẵn,
đó là lí do tại sao bạn không thể chết. Trước chết người ta trở thành vô ý thức.
Nếu bạn có ý thức và cảm thấy rằng bạn sắp chết, đừng sợ. Bạn vẫn có ý thức,
cho nên bạn không thể chết. Và nếu bạn trở nên vô ý thức, thế thì hơi thở của bạn
sẽ bắt đầu. Thế thì bạn không thể ngăn cản được nó. Cho nên bạn có thể dùng cái
nút tai, v.v. Tay là không cần thiết. Tay đã được dùng chỉ bởi vì nếu bạn đang
rơi vào trong vô thức, tay sẽ trở thành chùng lỏng và quá trình sống sẽ phục hồi
lại bởi chính nó.
Bạn có thể dùng cái
nút cho tai, vải che cho mắt, nhưng đừng dùng bất kì nút nào cho mũi hay cho mồm,
vì thế thì nó có thể trở thành tai hoạ. Ít nhất mũi phải vẫn còn mở. Đóng nó bằng
tay bạn. Thế thì khi bạn thực tại rơi vào vô thức, tay sẽ trở nên lỏng và việc
thở sẽ bước vào. Cho nên có an ninh dựng sẵn. Phương pháp này có thể được nhiều
người dùng.
Phương pháp thứ tư
dành cho những người có tâm rất phát triển, người thuộc kiểu yêu, tình cảm, kiểu
xúc cảm.
Người phúc lạc, khi
các giác quan được hấp thu vào trong tâm, đạt tới trung tâm hoa sen.
Phương pháp này có thể
được dùng chỉ bởi những người hướng tâm. Do đó, trước hết hiểu người hướng tâm
là gì. Thế thì phương pháp này có thể được hiểu.
Với người hướng tâm,
mọi thứ dẫn tới tâm, mọi thứ. Nếu bạn yêu người đó, tâm người đó sẽ cảm thấy
tình yêu của bạn, không phải đầu người đó. Người hướng đầu, ngay cả khi được
yêu, cảm thấy nó bằng não, trong đầu. Người đó nghĩ về nó; người đó lập kế hoạch
về nó. Ngay cả tình yêu của người đó cũng là nỗ lực có chủ ý của tâm trí.
Kiểu cảm sống không dùng lí trí. Tất nhiên, tâm có lí trí riêng của nó, nhưng nó sống không dùng lí trí. Nếu ai đó hỏi bạn, "Tại sao bạn yêu?" nếu bạn có thể trả lời tại sao, thế thì bạn là người hướng đầu. Và nếu bạn nói, "Tôi không biết, tôi chỉ yêu," bạn là người hướng tâm. Cho dù bạn nói rằng ai đó là đẹp và đó là lí do tại sao bạn yêu, nó là lí trí. Với người hướng tâm, ai đó là đẹp vì họ yêu người đó. Người hướng đầu yêu ai đó vì anh ta đẹp hay cô ta đẹp. Lí trí tới trước, và thế rồi yêu tới. Với người hướng tâm, yêu tới trước và thế rồi mọi thứ khác theo sau. Kiểu cảm được định tâm vào tâm, cho nên bất kì cái gì xảy ra đều chạm tới tâm người đó.
Quan sát bản thân bạn
mà xem. Trong cuộc sống của bạn, nhiều thứ đang xảy ra mọi khoảnh khắc. Chúng chạm
vào bạn ở đâu? Bạn đi qua, và người ăn xin cắt ngang qua phố. Bạn bị người ăn
xin chạm ở đâu? Bạn có bắt đầu nghĩ về các điều kiện kinh tế không? Bạn có bắt
đầu nghĩ về cách việc ăn xin nên được chấm dứt bởi luật pháp, hay về cách xã hội
xã hội chủ nghĩa nên được tạo ra để cho không có những người ăn xin không? Đây
là người hướng đầu. Người ăn xin này trở thành chỉ là luận cứ cho người đó. Tâm
người đó không bị chạm tới, chỉ cái đầu của người đó bị chạm. Người đó sẽ không
làm cái gì đó cho người ăn xin này ở đây và bây giờ - không! Người đó sẽ làm
cái gì đó cho chủ nghĩa cộng sản, người đó sẽ làm cái gì đó cho tương lai, cho
xã hội không tưởng nào đó. Người đó thậm chí có thể cống hiến cả đời mình,
nhưng người đó không thể làm bất kì cái gì ngay bây giờ.
Tâm trí bao giờ cũng
là trong tương lai; tâm bao giờ cũng ở đây và bây giờ. Người hướng tâm sẽ làm
cái gì đó bây giờ cho người ăn xin này. Người ăn xin này là một cá nhân, không
phải là luận cứ. Nhưng với người hướng đầu, người ăn xin này chỉ là một con số
toán học. Với người đó, làm sao việc ăn xin phải được chấm dứt mới là vấn đề,
không phải là người ăn xin này nên được giúp đỡ - điều đó là không liên quan.
Cho nên cứ quan sát bản thân bạn đi. Trong nhiều tình huống, quan sát cách bạn
hành động. Bạn quan tâm tới tâm hay bạn quan tâm tới đầu?
Nếu bạn cảm thấy rằng
bạn là hướng hướng tâm, thế thì phương pháp này sẽ là rất hữu ích cho bạn.
Nhưng biết rõ rằng mọi người đang cố tự lừa mình rằng mình là người hướng tâm.
Mọi người đều cố cảm thấy rằng mình là người rất yêu thương, kiểu cảm - vì yêu
là nhu cầu cơ bản tới mức không ai có thể cảm thấy thoải mái nếu người đó thấy
rằng mình không có tình yêu, không có tâm yêu thương. Cho nên mọi người liên tục
nghĩ và tin điều này, nhưng tin sẽ không có tác dụng. Quan sát thật vô tư đi,
dường như bạn đang quan sát ai đó khác, và thế rồi quyết định - vì không có nhu
cầu tự lừa bản thân mình, và điều đó sẽ không giúp ích gì. Cho dù bạn tự lừa bản
thân bạn, bạn không thể lừa được kĩ thuật, cho nên khi bạn làm kĩ thuật này bạn
sẽ cảm thấy rằng không cái gì xảy ra.
Mọi người tới tôi, và
tôi hỏi họ thuộc vào kiểu nào. Họ thực sự không biết. Họ đã không bao giờ nghĩ
về nó - về họ là kiểu nào. Họ chỉ có quan niệm mơ hồ về bản thân họ, và những
quan niệm đó thực sự chỉ là tưởng tượng. Họ có những lí tưởng nào đó và hình ảnh
riêng của mình, và họ nghĩ - hay đúng hơn, họ ước ao - rằng họ là những hình ảnh
đó. Họ không là vậy, và thông thường điều xảy ra là họ bày tỏ chính điều ngược
lại.
Có lí do cho điều đó.
Người khăng khăng rằng mình là người hướng tâm có thể khăng khăng chỉ vì người
đó cảm thấy thiếu vắng của tâm, và người đó sợ. Người đó không thể trở nên nhận
biết về sự kiện rằng mình không có tâm.
Nhìn vào thế giới mà
xem! Nếu mọi người là đúng về tâm của mình, thế thì thế giới này không thể vô
tâm đến thế. Thế giới này là toàn bộ của chúng ta, cho nên ở đâu đó, cái gì đó
bị sai. Tâm không có đó. Thực sự, nó không bao giờ được huấn luyện để có đó.
Tâm trí được huấn luyện, cho nên nó có đó. Có trường học, cao đẳng, đại học để
huấn luyện tâm trí, nhưng không có chỗ để huấn luyện tâm. Và huấn luyện tâm trí
mang lợi, nhưng huấn luyện tâm là nguy hiểm. Nếu tâm của bạn được huấn luyện bạn
sẽ trở thành tuyệt đối không khớp với thế giới này, vì toàn thế giới được vận
hành qua lí trí.
Nếu tâm của bạn được
huấn luyện, bạn sẽ chỉ là ngớ ngẩn trong hoàn cảnh của hình mẫu toàn thể. Khi
toàn thế giới đi bên phải, bạn sẽ đi bên trái. Mọi nơi bạn sẽ cảm thấy khó
khăn. Thực sự, con người càng trở nên được văn minh, tâm càng ít được huấn luyện.
Chúng ta thực sự đã quên nó - rằng nó tồn tại, hay rằng có bất kì nhu cầu nào về
đào tạo nó. Đó là lí do tại sao những phương pháp như vậy, mà có thể có tác dụng
rất dễ dàng, lại không bao giờ có tác dụng.
Phần lớn các tôn giáo
dựa trên các kĩ thuật hướng tâm - Ki tô giáo, Hồi giáo, Hindu giáo và nhiều tôn
giáo khác. Họ dựa trên người hướng tâm. Tôn giáo càng cổ, nó càng dựa trên những
người hướng tâm. Thực sự, khi Vedas được viết và Hindu giáo đang phát triển, đã
có những người hướng tâm. Và để tìm ra người hướng tâm trí thì đã thực sự khó.
Nhưng bây giờ điều đảo ngược là vấn đề. Bạn không thể cầu nguyện được, vì lời cầu
nguyện là kĩ thuật hướng tâm. Đó là lí do tại sao ở phương Tây, nơi Ki tô giáo
thịnh hành - chính là tôn giáo của lời cầu nguyện - lời cầu nguyện đã trở thành
khó. Đặc biệt, nhà thờ Cơ đốc giáo là hướng lời cầu nguyện.
Không tồn tại những
điều như thiền đối với Ki tô giáo, nhưng bây giờ ngay cả ở phương Tây mọi người
đang trở nên phát rồ về thiền. Không người nào đi tới nhà thờ - và cho dù ai đó
có đi, nó chỉ là thứ hình thức, chỉ là tôn giáo chủ nhật - vì lời cầu nguyện hướng
tâm đã trở thành tuyệt đối không được biết cho con người như người đó ở phương
Tây.
Thiền là hướng tâm
trí nhiều hơn, lời cầu nguyện là hướng tâm nhiều hơn. Hay chúng ta có thể nói rằng
lời cầu nguyện là kĩ thuật của thiền dành cho người hướng tâm. Kĩ thuật này
cũng dành cho người hướng tâm:
Người phúc lạc, khi
các giác quan được hấp thu vào trong tâm, đạt tới trung tâm hoa sen.
Vậy cái gì cần được
làm trong kĩ thuật này?
Khi các giác quan được
hấp thu vào trong tâm...
Thử đi! Nhiều cách là
có thể. Bạn chạm người nào đó: nếu bạn là người hướng tâm, cái chạm lập tức đi
tới tim bạn, và bạn có thể cảm thấy phẩm chất này. Nếu bạn cầm tay một người hướng
đầu, bàn tay sẽ lạnh - không chỉ lạnh, mà chính phẩm chất sẽ là lạnh. Sự chết,
sự chết nào đó sẽ có trong bàn tay này. Nếu người đó là hướng tâm, thế thì có
hơi ấm nào đó, thế thì tay người này sẽ thực sự tan chảy cùng bạn. Bạn sẽ cảm
thấy thứ nào đó chảy từ tay người đó vào bạn, và sẽ có gặp gỡ, trao đổi hơi ấm.
Hơi ấm này tới từ
tâm. Nó không bao giờ có thể tới từ đầu, vì đầu bao giờ cũng mát mẻ... lạnh,
tính toán. Tâm là ấm, không tính toán. Đầu bao giờ cũng nghĩ về làm sao lấy nhiều
hơn; tâm bao giờ cũng cảm thấy làm sao cho nhiều hơn. Hơi ấm đó chỉ là việc cho
- việc cho năng lượng, việc cho rung động bên trong, việc cho sự sống. Đó là lí
do tại sao bạn cảm thấy phẩm chất khác trong nó. Nếu người này thực sự ôm bạn,
bạn sẽ cảm thấy sự tan chảy sâu sắc với người đó.
Chạm đi! Nhắm mắt lại;
chạm bất kì cái gì. Chạm người yêu của bạn, chạm con của bạn hay mẹ bạn hay bạn
của bạn, hay chạm cây hay hoa, hay chỉ chạm đất. Nhắm mắt lại và cảm thấy trao
đổi từ tâm bạn tới đất, hay tới người yêu của bạn. Cảm thấy rằng tay bạn chính
là tâm bạn duỗi ra để chạm đất. Để cho việc cảm của cái chạm được có quan hệ tới
tâm.
Bạn đang nghe nhạc. Đừng
nghe nó từ cái đầu. Quên cái đầu bạn đi và cảm thấy rằng bạn là vô đầu, không
có đầu chút nào. Điều hay là có bức tranh của bản thân bạn không có đầu trong
phòng ngủ của bạn. Tập trung vào nó; bạn hiện hữu mà không có đầu, không cho
phép cái đầu bước vào. Trong khi nghe nhạc, nghe nó từ tâm. Cảm thấy âm nhạc
đang tới tâm bạn; để cho tâm bạn rung động cùng nó. Để cho các giác quan của bạn
được nối với tâm, không với đầu. Thử điều này với mọi giác quan, và cảm thấy
ngày càng nhiều rằng mọi giác quan đi vào trong tâm và tan biến trong nó.
Người phúc lạc, khi
các giác quan được hấp thu vào trong tâm, đạt tới trung tâm hoa sen.
Tâm là hoa sen. Mọi
giác quan chỉ là việc mở ra của hoa sen, các cánh của hoa sen. Thử đặt quan hệ
các giác quan của bạn với tâm trước hết. Thứ hai, bao giờ cũng nghĩ rằng mọi
giác quan đều đi sâu xuống vào trong tâm và trở nên được hấp thu trong nó. Khi
hai điều này trở nên được thiết lập, chỉ thế thì các giác quan của bạn sẽ bắt đầu
giúp bạn. Chúng sẽ dẫn bạn tới tâm, và tâm của bạn sẽ trở thành hoa sen.
Hoa sen này của tâm sẽ
cho bạn việc định tâm. Một khi bạn biết trung tâm của tâm, rất dễ dàng rơi xuống
vào trung tâm rốn, rất dễ dàng. Lời kinh này thậm chí không nhắc tới điều này -
không có nhu cầu. Nếu bạn thực sự bị hấp thu vào trong tâm một cách toàn bộ, và
lí trí đã dừng làm việc, thế thì bạn sẽ rơi xuống từ tâm, cánh cửa được mở hướng
tới rốn. Chỉ từ đầu mới khó đi xuống rốn. Hay nếu bạn ở giữa hai trung tâm này,
giữa tâm và đầu, thế nữa cũng khó đi xuống rốn. Một khi bạn bị hấp thu vào
trong rốn, bạn đột nhiên đã rơi xuống bên ngoài tâm. Bạn đã rơi vào trong trung
tâm rốn mà là trung tâm cơ bản - nguyên gốc.
Đó là lí do tại sao lời
cầu nguyện giúp đỡ. Đó là lí do tại sao Jesus có thể nói, "Yêu là Thượng đế."
Nó không đích xác đúng, nhưng yêu là cánh cửa. Nếu bạn ở sâu trong yêu - với bất
kì người nào, không thành vấn đề ai... Yêu thành vấn đề; đối thể của yêu không
thành vấn đề. Nếu bạn ở trong yêu sâu sắc với bất kì người nào, nhiều trong yêu
tới mức không có mối quan hệ từ cái đầu, nếu chỉ tâm vận hành, thế thì yêu này
sẽ trở thành lời cầu nguyện và người yêu của bạn sẽ trở thành thiêng liêng.
Thực sự, mắt của tâm
không thể thấy được cái gì khác, và đó là lí do tại sao nó xảy ra với yêu bình
thường nữa. Nếu bạn rơi vào yêu với ai đó, ai đó đó trở thành thiêng liêng. Nó
có thể không chứng tỏ là kéo dài lắm, và nó có thể không chứng tỏ là thứ rất
sâu, nhưng trong khoảnh khắc đó người yêu hay người bạn yêu trở thành thiêng
liêng. Cái đầu sẽ phá huỷ toàn thể câu chuyện sớm hay muộn, bởi vì cái đầu sẽ tới
và cố kiểm soát mọi thứ. Ngay cả yêu cũng phải bị kiểm soát. Và một khi cái đầu
kiểm soát, mọi thứ bị phá huỷ.
Nếu bạn có thể ở
trong yêu mà không có việc kiểm soát của cái đầu bước vào, yêu của bạn nhất định
trở thành lời cầu nguyện và người yêu của bạn sẽ trở thành cánh cửa. Yêu của bạn
sẽ làm cho bạn được định tâm trong tâm - và một khi bạn được định tâm trong
tâm, bạn tự động rơi sâu xuống vào trong trung tâm rốn.
Kĩ thuật thứ năm:
Tâm trí không để ý, giữ ở giữa - tới cùng.
Kinh này chỉ chừng
này vậy. Cũng giống như bất kì kinh khoa học nào nó là ngắn, nhưng ngay cả vài
từ này cũng có thể biến đổi cuộc sống của bạn toàn bộ.
Tâm trí không để ý,
giữ ở giữa - tới cùng.
Giữ ở giữa... Phật đã
phát triển toàn thể kĩ thuật thiền của ông ấy trên lời kinh này. Con đường của
ông ấy được biết là majjhim nikaya - trung đạo. Phật nói, "Bao giờ cũng
còn ở giữa - trong mọi thứ."
Hoàng tử Shrown nhận
khai tâm, Phật đã khai tâm cho anh ta vào tính chất sannyas. Hoàng tử đó là người
hiếm hoi, và khi anh ta nhận tính chất sannyas, khi anh ta được khai tâm, toàn
thể vương quốc của anh ta rất đỗi ngạc nhiên. Vương quốc không thể tin được điều
đó, mọi người không thể tin được rằng Hoàng tử Shrown có thể trở thành một
sannyasin. Không ai đã bao giờ tưởng tượng được điều đó, vì anh ta đã là con
người của thế gian này - mê đắm mọi thứ, mê đắm tới cực điểm. Rượu và đàn bà đã
là toàn thể chỗ của anh ta.
Thế rồi đột nhiên Phật
tới thị trấn đó, và hoàng tử tới gặp ông ấy trong buổi darshan - cuộc đương đầu
tâm linh. Anh ta quì xuống dưới chân Phật và anh ta nói, "Xin khai tâm cho
tôi. Tôi sẽ bỏ thế gian này." Những người đã tới cùng anh ta thậm chí
không nhận biết... điều này bất ngờ thế. Cho nên họ hỏi Phật, "Cái gì đang
xảy ra? Đây là phép màu. Shrown không phải là kiểu người đó, và anh ta đã sống
rất xa hoa. Mãi cho tới giờ chúng tôi thậm chí không thể tưởng tượng được rằng
Shrown sẽ nhận tính chất sannyas, cho nên cái gì đã xảy ra? Thầy đã làm cái gì
đó."
Phật nói, "Ta đã
không làm gì cả. Tâm trí có thể chuyển dễ dàng từ cực điểm này sang cực điểm
kia. Đó là cách thức của tâm trí - chuyển từ cực điểm này sang cực điểm kia.
Cho nên Shrown không làm cái gì đó mới. Điều đó là được mong đợi. Vì các ông
không biết luật của tâm trí, đó là lí do tại sao các ông ngạc nhiên đến thế."
Tâm trí chuyển từ cực
điểm này sang cực điểm kia, đó là cách thức của tâm trí. Cho nên điều đó xảy ra
mọi ngày: người đã điên theo đuổi của cải thì từ bỏ mọi thứ, trở thầy tu trần
trụi. Chúng ta nghĩ, "Phép màu làm sao!" Nhưng điều đó không là gì cả
- chỉ là luật bình thường. Người không điên theo đuổi của cải không thể được
mong đợi từ bỏ, vì chỉ từ cực điểm này bạn mới có thể chuyển sang cực điểm kia
- cũng giống con lắc, từ cực điểm này sang cực điểm kia.
Cho nên một người
theo đuổi của cải, điên vì chạy theo của cải, sẽ trở điên chống lại nó, nhưng
việc điên sẽ còn lại - đó là tâm trí. Người sống chỉ vì dục có thể trở thành vô
dục, có thể chuyển vào cô lập, nhưng việc điên sẽ vẫn còn. Trước đây người đó
đã sống chỉ vì dục, giờ người đó sẽ sống chỉ chống dục - nhưng thái độ, cách tiếp
cận, vẫn còn là một.
Cho nên brahmachari,
người vô dục, không thực sự ra ngoài dục; toàn thể tâm trí người đó là hướng dục.
Người đó chống lại, nhưng không đi ra ngoài. Cách đi ra ngoài bao giờ cũng là ở
giữa, nó không bao giờ ở cực điểm. Cho nên Phật nói, "Điều này có thể đã
được mong đợi. Không phép màu nào đã xảy ra. Đây là cách tâm trí vận
hành."
Shrown đã trở thành
người ăn xin, một sannyasin. Anh ta đã trở thành một bhikkhu khất sĩ, một sư,
và các đệ tử khác của Phật cũng sớm quan sát rằng anh ta đã chuyển sang cực điểm
kia. Phật không bao giờ yêu cầu bất kì ai phải trần trụi, nhưng Shrown đã trở
nên trần trụi. Phật không ủng hộ trần trụi. Ông ấy nói, "Đó chỉ là cực điểm
khác."
Có những người sống
vì quần áo dường như đó là cuộc sống của họ, và có những người khác trở thành
trần trụi - nhưng cả hai đều tin vào cùng một điều. Phật không bao giờ dạy trần
trụi, nhưng Shrown đã trở thành trần trụi. Anh ta đã là đệ tử duy nhất của Phật
mà sống trần trụi. Anh ta trở nên rất, rất tự hành hạ mình. Phật cho phép các
sannyasin ăn một bữa mỗi ngày nhưng Shrown sẽ chỉ ăn một bữa xen kẽ ngày không
ăn. Anh ta trở nên gầy còm. Trong khi mọi đệ tử khác ngồi thiền dưới cây, trong
bóng cây, anh ta không bao giờ ngồi dưới bất kì cây nào. Anh ta bao giờ cũng vẫn
còn ngồi dưới mặt trời nóng. Anh ta là người đẹp trai và anh ta có thân thể rất
đáng yêu, nhưng trong vòng sáu tháng không ai có thể nhận ra rằng anh ta là
cùng người cũ. Anh ta trở nên xấu, đen đủi, cháy xém.
Một đêm Phật đi tới
Shrown và hỏi anh ta, "Shrown, ta đã nghe nói rằng khi ông còn là hoàng tử,
trước khi khai tâm, ông thường chơi đàn veena, đàn sitar, và ông là nhạc sĩ lớn.
Cho nên ta đã tới để hỏi ông một câu hỏi. Dây đàn veena rất chùng, điều gì xảy
ra?" Shrown nói, "Nếu dây rất chùng, thế thì không âm nhạc nào là có
thể." Và thế rồi Phật nói, "Và nếu dây đàn rất căng, quá căng, thế
thì cái gì xảy ra?" Shrown nói, "Thế nữa âm nhạc cũng không thể được
tạo ra. Dây đàn phải ở giữa - không chùng không căng, nhưng chỉ đích xác ở giữa."
Shrown nói, "Dễ chơi đàn veena, nhưng chỉ một thầy mới có thể lên các dây
này cho đúng, ở giữa."
Thế là Phật nói,
"Chừng nấy là điều ta phải nói cho ông, sau khi quan sát ông trong sáu
tháng qua - rằng trong cuộc sống âm nhạc cũng chỉ tới khi các dây không chùng
không căng, nhưng ở giữa. Cho nên từ bỏ là dễ, nhưng chỉ một thầy mới biết làm
sao là ở giữa. Cho nên Shrown, là thầy đi, và để những dây này của cuộc sống được
ở chính giữa - trong mọi thứ. Đừng đi tới cực điểm này, đừng đi sang cực điểm
kia. Mọi thứ đều có hai cực điểm, nhưng ông vẫn còn chỉ ở giữa."
Nhưng tâm trí rất
không để ý. Đó là lí do tại sao kinh này nói,
tâm trí không để ý...
Bạn sẽ nghe điều này,
bạn sẽ hiểu điều này, nhưng tâm trí sẽ không để ý. Tâm trí bao giờ cũng liên tục
chọn các cực điểm.
Cực điểm có sức mê hoặc
với tâm trí. Tại sao? Vì ở giữa, tâm trí chết. Nhìn vào con lắc mà xem: nếu bạn
có bất kì đồng hồ cổ nào, nhìn vào con lắc. Con lắc có thể liên tục chuyển cả
ngày nếu nó đi tới các cực điểm. Khi nó đi sang trái nó đang thu lấy đà để đi
sang phải. Khi nó đi sang phải, đừng nghĩ rằng nó đang đi sang phải - nó đang
tích luỹ đà để đi sang trái. Cho nên các cực điểm là phải-trái, phải-trái.
Để con lắc ở giữa, thế
thì toàn thể đà bị mất. Thế thì con lắc không có năng lượng nào, vì năng lượng
tới từ một trong các cực điểm. Thế thì cực điểm đó ném nó hướng tới cực điểm
kia, thế rồi lần nữa, và đó là vòng tròn... con lắc liên tục chuyển. Để nó ở giữa,
và toàn thể chuyển động vậy sẽ dừng lại.
Tâm trí cũng giống
như con lắc và mọi ngày, nếu bạn quan sát, bạn sẽ đi tới biết điều này. Bạn quyết
định điều này về một cực điểm, và thế rồi bạn chuyển sang cực điểm kia.
Bạn giận; thế rồi bạn
hối lỗi. Bạn quyết định, "Không, điều này là đủ rồi. Bây giờ mình sẽ không
bao giờ giận." Nhưng bạn không thấy các cực điểm.
"Không bao giờ"
là một cực điểm. Làm sao bạn chắc chắn thế rằng bạn sẽ không bao giờ giận? Bạn
đang nói gì? Nghĩ thêm một lần nữa đi - không bao giờ sao? Thế thì quay về quá
khứ và nhớ xem bao nhiêu lần bạn đã quyết định rằng "Mình sẽ không bao giờ
giận." Khi bạn nói, "Mình sẽ không bao giờ giận," bạn không biết
rằng bằng việc giận bạn đã tích luỹ đà để đi sang cực điểm kia.
Bây giờ bạn cảm thấy
hối lỗi, bạn cảm thấy tồi tệ. Hình ảnh tự tạo của bạn bị xáo động, rung chuyển.
Bây giờ bạn không thể nói bạn là người tốt, bạn không thể nói rằng bạn là người
tôn giáo. Bạn đã giận rồi, và làm sao người tôn giáo có thể giận được? Làm sao
người tốt có thể giận được? Cho nên bạn hối lỗi để lấy lại cái tốt của bạn lần
nữa. Ít nhất trong con mắt riêng của bạn, bạn có thể cảm thấy thoải mái - rằng
bạn đã hối lỗi và bạn đã quyết định rằng bây giờ sẽ không còn giận nữa. Hình ảnh
bị lung lay đã quay lại nguyên trạng cũ. Bây giờ bạn cảm thấy thoải mái, bạn đã
chuyển sang cực điểm khác.
Nhưng tâm trí mà nói,
"Bây giờ mình sẽ không bao giờ giận," sẽ lại giận nữa. Và khi bạn lại
giận, bạn sẽ quên hoàn toàn việc hối lỗi của bạn, quyết định của bạn - mọi thứ.
Sau giận, lần nữa quyết định sẽ tới và hối lỗi sẽ tới, và bạn sẽ không bao giờ
thấy sự lừa dối của nó. Điều này bao giờ cũng là như vậy.
Tâm trí chuyển từ giận
sang hối lỗi, từ hối lỗi sang giận. Vẫn còn ở giữa đi. Không giận và không hối
lỗi. Nếu bạn đã giận, thế thì xin bạn, ít nhất làm điều này: không hối lỗi.
Không chuyển sang cực
điểm kia. Vẫn còn ở giữa. Nói, "Mình đã giận và mình là người xấu, người bạo
hành. Mình đã giận. Đây là cách mình là vậy." Nhưng không hối lỗi; không
chuyển sang cực điểm kia. Vẫn còn ở giữa. Nếu bạn có thể vẫn còn ở giữa, bạn sẽ
không thu lấy đà, lấy năng lượng cho việc giận nữa.
Cho nên lời kinh này,
Tâm trí không để ý,
giữ ở giữa - tới cùng.
Và tới cùng được ngụ
ý gì? Cho tới khi bạn bùng nổ! Giữ ở giữa cho tới khi tâm trí chết. Giữ ở giữa
cho tới khi không có tâm trí. Cho nên, tâm trí không để ý, giữ ở giữa - tới
cùng không có tâm trí. Nếu tâm trí ở các cực điểm, thế thù chỗ giữa sẽ là vô
trí.
Nhưng đây là điều khó
nhất trên thế giới để làm. Nó có vẻ dễ, nó có vẻ đơn giản; có thể dường như bạn
có thể làm được điều này. Và bạn sẽ cảm thấy thoải mái nếu bạn nghĩ rằng không
có nhu cầu về bất kì hối lỗi nào. Thử điều này đi, và thế thì bạn sẽ biết rằng
khi bạn nổi giận tâm trí sẽ khăng khăng vào hối lỗi.
Chồng và vợ liên tục
cãi nhau, và trong hết thế kỉ nọ tới thế kỉ kia đã từng có những người khuyên bảo,
những cố vấn, những người vĩ đại đã từng dạy cách sống và yêu - nhưng họ liên tục
cãi nhau. Freud, lần đầu tiên, đã trở nên nhận biết về hiện tượng rằng bất kì
khi nào bạn trong yêu - cái gọi là yêu - bạn cũng trong ghét. Buổi sáng nó là
yêu, buổi tối nó là ghét, và con lắc liên tục chuyển. Mọi người chồng, mọi người
vợ đều biết điều này, nhưng Freud có cái nhìn sâu sắc rất phi thường. Freud nói
rằng nếu một đôi đã dừng tranh đấu, biết rõ rằng yêu đã chết.
Yêu đó mà đã tồn tại
cùng ghét và tranh đấu không thể còn lại được, cho nên nếu bạn thấy một đôi
không bao giờ tranh đấu, đừng nghĩ rằng đây là đôi lí tưởng. Nó ngụ ý không có
đôi nào cả. Họ đang sống song song, nhưng không sống cùng nhau. Họ là những đường
song song không bao giờ gặp gỡ ở bất kì chỗ nào, thậm chí không tranh đấu. Họ cả
hai là một mình cùng nhau - song song.
Tâm trí phải chuyển
sang cái đối lập, cho nên tâm lí học bâu giờ cho lời khuyên tốt hơn. Lời khuyên
là tốt hơn, sâu hơn, xuyên thấu hơn. Nó nói rằng nếu bạn thực sự muốn yêu - với
tâm trí - thế thì đừng sợ tranh đấu. Thực sự, bạn phải tranh đấu đích thực để
cho bạn có thể chuyển sang cực điểm khác của yêu đích thực. Cho nên khi bạn
tranh đấu với vợ bạn, đừng né tránh nó; bằng không yêu cũng sẽ bị né tránh. Khi
thời gian cho tranh đấu có đó, tranh đấu đến cùng. Thế thì đến tối bạn sẽ có khả
năng yêu: tâm trí sẽ phải thu lấy đà. Yêu bình thường không thể tồn tại mà
không có tranh đấu vì có chuyển động của tâm trí. Chỉ yêu mà không của tâm trí
mới có thể tồn tại mà không có tranh đấu, nhưng thế thì nó là điều khác hoàn
toàn.
Vị phật yêu... đó là
điều khác hoàn toàn. Nhưng nếu Phật đi tới yêu bạn, bạn sẽ không cảm thấy thoải
mái vì sẽ không có lỗi trong nó. Nó sẽ đơn giản dịu dàng và dịu dàng và dịu
dàng - và chán, vì gia vị tới từ tranh đấu. Vị phật không thể giận, ông ấy chỉ
có thể yêu. Bạn sẽ không cảm thấy tình yêu của ông ấy vì bạn có thể cảm thấy chỉ
khi có cái đối lập; bạn có thể cảm nó chỉ trong tương phản.
Khi Phật quay về
thành phố quê nhà sau mười hai năm, vợ của ông ấy không ra đón ông ấy. Cả thành
phố tụ tập để đón ông ấy ngoại trừ vợ ông ấy. Phật cười, và ông ấy nói với đại
đệ tử của mình, Ananda, "Yashodhara đã không tới. Ta biết rõ cô ấy. Dường
như là cô ấy vẫn còn yêu ta. Cô ấy kiêu sa, và cô ấy cảm thấy bị tổn thương. Ta
đã nghĩ rằng mười hai năm là thời gian đủ dài và cô ấy có thể không còn trong
yêu bây giờ, nhưng dường như là cô ấy vẫn còn trong yêu - mặc dù giận. Cô ấy đã
không ra đón ta. Ta sẽ phải đi về nhà."
Thế là Phật đi.
Ananda đi cùng ông ấy; đó đã là một điều kiện với Ananda. Khi Ananda nhận khai
tâm ông ấy đã làm ra điều kiện với Phật, theo đó Phật đã đồng ý, rằng ông ấy
bao giờ cũng vẫn còn ở cùng Phật. Ông ấy là anh họ, cho nên Phật phải nhân nhượng.
Ananda đi theo ông ấy
về nhà, vào trong cung điện, cho nên Phật nói, "Ít nhất với điều này ông ở
lại sau và đừng đi cùng ta, vì cô ấy sẽ bực tức. Ta quay về sau mười hai năm,
và ta đã chạy đi thậm chí không nói gì với cô ấy. Cô ấy vẫn còn giận, cho nên đừng
tới cùng ta; bằng không cô ấy sẽ cảm thấy rằng ta thậm chí đã không cho phép cô
ấy nói bất kì cái gì. Cô ấy phải đã cảm thấy cần nói nhiều điều, cho nên cứ để
cô ấy giận, đừng tới cùng ta."
Phật đi vào. Tất
nhiên, Yashodhara đã gần như núi lửa. Cô ấy bùng phát, bùng nổ. Cô ấy bắt đầu
kêu khóc và nói nhiều thứ. Phật ở đó, chờ đợi ở đó, và dần dần cô ấy bình thản
lại và nhận ra rằng Phật thậm chí đã không thốt ra một lời. Cô ấy lau mắt và nhìn
Phật, và Phật nói, "Anh đã tới để nói rằng anh đã có được cái gì đó, anh
đã biết cái gì đó, anh đã nhận ra cái gì đó. Nếu em trở nên bình tĩnh anh có thể
cho em thông điệp - chân lí mà anh đã nhận ra. Anh đã chờ đợi nhiều thế để cho
em có thể trải qua việc tẩy rửa. Mười hai năm là chuyện dài. Em phải đã thu thập
nhiều vết thương, và giận của em là có thể hiểu được; anh mong đợi điều này. Điều
đó chỉ ra em vẫn còn yêu anh. Nhưng có tình yêu vượt ra ngoài tình yêu này, và
chỉ vì tình yêu đó mà anh đã quay lại để kể cho em cái gì đó."
Nhưng Yashodhara
không thể cảm được tình yêu đó. Khó cảm thấy nó vì nó im lặng thế. Nó im lặng
thế, nó dường như vắng bóng. Khi tâm trí dừng lại, thế thì tình yêu khác xảy
ra. Nhưng tình yêu đó không có cái đối lập với nó. Khi tâm trí dừng lại, thực sự,
bất kì cái gì xảy ra đều không có cái đối lập với nó. Với tâm trí bao giờ cũng
có cực đối diện, và tâm trí di chuyển như con lắc. Kinh này là tuyệt vời, và
phép màu là có thể qua nó:
Tâm trí không để ý,
giữ nó ở giữa - tới cùng.
Cho nên thử nó đi. Và
kinh này là dành cho cả cuộc đời bạn. Bạn không thể thỉnh thoảng mới thực hành
nó, bạn phải nhận biết liên tục. Làm, bước đi, ăn, trong quan hệ, mọi nơi - vẫn
còn ở giữa. Ít nhất thử đi, và bạn sẽ cảm thấy sự phát triển bình thản nào đó,
thanh bình tới với bạn, một trung tâm yên tĩnh trưởng thành bên trong bạn.
Cho dù bạn không
thành công trong việc đích xác ở giữa, cố ở giữa đi. Dần dần bạn sẽ có cảm giác
về chỗ giữa nghĩa là gì. Bất kì cái gì có thể là hoàn cảnh - ghét hay yêu, giận
hay hối lỗi - bao giờ cũng nhớ các cái đối lập cực và vẫn còn ở giữa. Và sớm
hay muộn bạn sẽ loạng choạng vớ được đích xác điểm giữa.
Một khi bạn biết nó bạn không bao giờ có thể quên được nó nữa, vì điểm giữa đó là ở ngoài tâm trí. Điểm giữa đó là tất cả mọi điều mà tâm linh ngụ ý.
Xem Tiếp Chương 12 –
Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá