Read more
(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)
Lâm Tế (Rinzai)
Thầy Của Tiếng Hét – Osho
Chương 5. Thảnh Thơi Và Biến Mất
Nghe hoặc Tải MP3 'Lâm Tế (Rinzai) – Thầy Của Điều Phi Lí' ê
Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,
Lâm Tế có lần tới thăm một trong những đệ tử của Vân Nham Đàm Thạch11,
Án Sơn12. Nhân cơ hội đó ông ấy hỏi Án Sơn: "Bò trắng của mảnh đất đẫm
sương là gì?"
Án Sơn đáp ứng bằng việc nói: "Mò! Mò!"
Lâm Tế bình: "Ông câm!"
Án Sơn nói, "Thế ông thì sao?"
Lâm Tế nhận xét, "Ông là con vật!"
Một lần Lâm Tế hỏi một ni cô, "Tới tốt hay tới tồi?"
Ni cô hét lên.
"Tiếp tục đi, tiếp tục đi, nói nữa đi!" Lâm Tế kêu, vừa
vớ lấy cái gậy. Ni cô lại hét lên lần nữa. Lâm Tế đánh cô ấy.
Một dịp khác Lâm Tế hỏi Lo'pu, "Mãi cho tới giờ đã trở
thành tục lệ là với một số người thì dùng gậy và với người khác thì cho tiếng
hét. Cách nào tới gần trái tim của người nhận hơn?"
"Không cách nào," Lo'pu đáp ứng.
"Cái nào tới gần?" Lâm Tế hỏi.
Lo'pu hét. Thầy đánh ông ấy.
Maneesha, tôi càng
nhìn sâu hơn vào Thiền, nhiều điều hơn lại càng trở nên rõ ràng như pha lê. Một
điều là tính duy nhất tuyệt đối của nó trong thế giới tôn giáo.
So với Thiền, tất cả
các tôn giáo đều như trò giải trí. Các nghi lễ hình thức, những ước định xã hội
- Thiền đi qua chúng như lưỡi kiếm chặt phăng mọi dây trói làm mù bạn. Nó không
có nghi lễ, nó không có mật chú, nó không cúng tế bất kì cái gì cho bất kì ai.
Chính cơ sở của cúng tế, bản thân Thượng đế, là không có trong Thiền.
Không có Thượng đế bạn
không thể tạo ra nghi lễ, cúng tế được. Không có Thượng đế tất cả mọi tôn giáo
của bạn sẽ có vẻ như tuyệt đối vô nghĩa. Nếu Thượng đế bị bỏ đi, cái gì sẽ trở
thành Hindu giáo và Hồi giáo và Ki tô giáo? Với việc bỏ đi giả tưởng toàn thể
dinh thự của những tôn giáo đó sụp đổ hoàn toàn xuống đất. Điều đó là giả tưởng,
và giả tưởng không phải là thực tại. Giả tưởng là phóng chiếu chỉ của con người.
Đúng là con người muốn
an ninh nào đó, đúng là con người muốn an toàn nào đó. Con người bất an ninh
trong vũ trụ bao la này, quá nhỏ và quá một mình, quá bất lực. Và bao giờ cũng
có cái chết: bất kì khoảnh khắc nào nó cũng có thể gõ cửa nhà bạn.
Từ tất cả những cái bất
an ninh này, lo âu, sợ hãi, đã nảy sinh ra giả tưởng về Thượng đế. Mọi người
níu bám lấy nó, bởi vì không có nó thì cuộc sống của họ sẽ trở thành lo âu thế,
họ sẽ phát điên. Lấy đi Thượng đế khỏi họ, bạn đang lấy đi chính sự lành mạnh của
họ, chính thông minh của họ, tâm trí họ, toàn bộ việc ước định từ hàng triệu
năm.
Theo tôi, chừng nào bạn
còn chưa có khả năng ném đi giả tưởng về Thượng đế và thiên đường và địa ngục,
mọi phóng chiếu, bạn không thể là người tìm kiếm đích thực được. Bạn phải vứt bỏ
đi mọi điều đã được cái gọi là tôn giáo tạo ra trên khắp thế giới. Cơ sở của họ
là một; họ có thể tạo ra nhiều thượng đế học quanh giả tưởng này, họ có thể
tranh đấu lẫn nhau về các thượng đế học của họ, nhưng về bản chất họ tất cả đều
là một.
Các thượng đế của họ
có thể có những mặt khác nhau, nhưng thượng đế có đó. Địa ngục và thiên đường của
họ có thể có môi trường khác, nhưng chúng đều có đó. Họ liên tục biện luận về
cái vốn dĩ là điều tưởng tượng, và họ nghĩ rằng đây là luận cứ, điều họ đã tiếp
tục làm từ hàng thế kỉ, có tầm quan trọng nào đó. Trong thực tế, đó là nỗ lực để
làm lệch tâm trí con người: tranh đấu về những điều không bản chất để cho không
ai nêu ra câu hỏi... không ai có thời gian để hỏi về điều bản chất.
Thiền là điều bản chất
thuần khiết, không bị ô nhiễm, không bị biến chất bởi bất kì điều không bản chất
nào. Bạn không thể lấy được cái gì từ Thiền, bởi vì nó chỉ là tuyên bố của bạn
về tự tính của bạn; mà bạn cũng không thể thêm được bất kì cái gì vào Thiền, bởi
vì bất kì cái gì được thêm vào cũng đều thành nhân tạo.
Thiền là tuyệt đối
thiên về tự nhiên. Nó không chống lại giải trí; trong thực tế chỉ Thiền mới có
khả năng cười, giải trí, nhưng giải trí của nó không khác với chứng ngộ của nó.
Chính phẩm chất của giải trí là khác.
J. Krishnamurti, một
người đã tranh đấu trong chín mươi năm - lời cuối cùng của ông ấy có nghĩa lớn
lao nào đó. Một trong những người bạn của tôi đã hiện diện ở đó.
Krishnamurti than
vãn, ông ấy than vãn cả đời mình. Ông ấy than vãn rằng "mọi người đã coi
tôi như trò giải trí. Họ tới nghe tôi..." Có những người đã nghe ông ấy cả
năm chục năm liên tục, và vậy mà họ vẫn là những người cũ như họ lần đầu tiên đến
nghe ông ấy.
Một cách tự nhiên điều
đó gây khó chịu và bực dọc rằng cùng những người đó... Phần lớn trong họ tôi đều
biết, bởi vì J. Krishnamurti thường chỉ tới Bombay một lần trong năm quãng hai
ba tuần, và dần dần, dần dần Những người đi theo ông ấy ở Bombay trở nên quen với
tôi. Họ tất cả đều buồn về điểm này: Phải làm gì đây? Làm sao chúng tôi có thể
làm cho Krishnamurti sung sướng?
Lí do là ở chỗ
Krishnamurti chỉ nói, mà không bao giờ cho bất kì phương cách nào để cho bất kì
điều gì ông ấy nói tới trở thành kinh nghiệm. Điều đó toàn bộ là lỗi lầm của
ông ấy. Bất kì cái gì ông ấy đã nói đều tuyệt đối đúng, nhưng ông ấy không tạo
ra bầu khí hậu đúng, chỗ đúng mà tại đó điều đó có thể trở thành hạt mầm. Tất
nhiên ông ấy rất thất vọng với nhân loại, và thất vọng rằng đã không có lấy một
người trở nên chứng ngộ qua giáo huấn của ông ấy. Giáo huấn của ông ấy có mọi hạt
mầm, nhưng ông ấy không bao giờ chuẩn bị đất.
Thiền không phủ nhận
giải trí theo cách mà J. Krishnamurti đã lên án nó trong di chúc cuối cùng của
ông ấy cho thế giới. Ông ấy nói, "Tôn giáo không phải là trò giải
trí." Điều đó đúng, nhưng chứng ngộ có thể đủ bao la để bao hàm cả giải
trí trong nó.
Chứng ngộ có thể là
đa chiều. Nó có thể bao hàm tiếng cười, nó có thể bao hàm tình yêu, nó có thể
bao hàm cái đẹp, có có thể bao hàm sáng tạo. Không có gì giữ nó tách với thế giới
và tách với việc biến đổi thế giới thành nơi mang tính thơ ca nhiều hơn, khu vườn
đẹp hơn. Mọi thứ đều có thể được mang tới trạng thái duyên dáng tốt hơn.
Thiền không nói về những
nguyên lí lớn lao, điều phải được lưu ý. Nó đơn giản tạo ra phương sách và để bạn
tìm lối ra. Hiển nhiên nó đã thành công vô cùng. Không một Thiền sư nào đã từng
than vãn rằng "Đệ tử của ta không chịu nghe ta. Ta đã thất bại hoàn toàn
thất vọng. Nhân loại đã phản bội ta." Không một Thiền sư nào đã từng nhắc
tới điều đó một lần.
Nếu cái gì đó không
thành công, điều đó chỉ có nghĩa là phương sách của bạn không đúng. Bạn đã
không nhìn vào con người và nhìn vào tiềm năng của người đó một cách đúng đắn.
Có lẽ phương sách của bạn là tốt cho ai đó khác nhưng không cho người này.
Thiền đã tạo ra các
phương sách, để bạn hoàn toàn tự do tìm ra chân lí. Và đó là điều kì lạ, nhiều
người đã trở nên chứng ngộ qua Thiền hơn qua bất kì tôn giáo nào khác trên thế
giới. Các tôn giáo khác đều rất lớn, còn Thiền là dòng suối rất nhỏ. Bạn có thể
thấy những điều nhỏ bé này, và thầy dùng chúng theo cách mà chúng bắt đầu trỏ tới
trăng.
Lâm Tế có lần tới
thăm một trong những đệ tử của Vân Nham Đàm Thạch, Án Sơn. Nhân cơ hội đó ông ấy
hỏi Án Sơn: "Bò trắng của mảnh đất đẫm sương là gì?"
Đó là một trong những
công án Thiền. Nó không ngụ ý gì; nó đơn giản cho bạn một câu đố mà không thể
giải được. Bây giờ bằng việc hỏi ai đó, "Bò trắng của mảnh đất đẫm sương
là gì?" - đây là loại câu hỏi siêu hình gì? Không tôn giáo nào sẽ hỏi câu
hỏi như vậy cả.
Tôi nhớ tới một cậu
bé thường hay tới thăm Picasso, và sống ở gần đó, ngay bên hàng xóm. Nó trở
thành bạn bè với Picasso. Nó mới chỉ năm hay sáu tuổi, nhưng rất bạo dạn. Xem
Picasso vẽ liên tục, một hôm nó cũng đem tới một tờ giấy và chìa cho Picasso
xem, nói, "Bác xem tranh cháu đây."
Picasso nhìn vào
tranh nó và nói, "Trời đất, cái gì thế này?"
Đứa bé nói, "Đấy
là bò ăn cỏ ạ."
Picasso nói,
"Cháu đã đánh bại ta rồi. Bò đâu?"
Đứa bé nói, "Bác
đừng hỏi câu hỏi ngốc thế. Con bò về nhà rồi. Sau khi ăn cỏ, bác cho rằng con
bò vẫn còn ở đó sao?"
Picasso nói, "Được
rồi, nhưng cỏ đâu?"
Đứa bé nói, "Bác
không thông minh tẹo nào. Khi bò đã ăn cỏ rồi, thì làm sao còn cỏ ở đó được?"
Đấy chỉ là tờ giấy trắng nó đem tới.
Picasso nói,
"Bác thích cái thông minh của cháu lắm. Điều đó thực sự thách đố bác khi
cháu nói con bò cháu đã vẽ, mà bác lại không thể thấy con bò nào cả. Bác đã
thách đố cả thế giới còn cháu lại thách đố bác."
Công án Thiền là câu
đố không có câu trả lời nào. Án Sơn đáp ứng bằng việc nói: "Mò! Mò!"
Không câu trả lời nào là câu trả lời đúng cả. Người ta phải hoàn toàn im lặng;
chỉ im lặng mới có thể trả lời công án Thiền. Nhưng Án Sơn đã dùng tâm trí mình
và cố gắng hình dung ra cách nào đó để chỉ ra con bò trắng là gì. Ông ta đã đem
tâm trí vào.
Lâm Tế bình:
"Ông câm! Ông cho rằng ông có thể lừa được ta sao bằng việc làm ra âm
thanh như vậy? Ông không thể nói được sao? Ông là người câm sao?" Công án
này cần sự đáp ứng. Cái mò, mò này không có tác dụng.
Án Sơn nói, "Thế
ông thì sao?" Ông ta đang nghĩ, "Còn gì có thể thích hợp hơn câu trả
lời này?" Trong thực tế, không trả lời mới thích hợp cho công án Thiền. Điều
đó phải được ghi nhớ. Đừng tìm bất kì câu trả lời nào, chỉ tìm im lặng. Hoàn
toàn im lặng. Trong im lặng của bạn thầy sẽ có khả năng thấy câu trả lời của bạn.
Án Sơn nói, "Thế
ông thì sao? - nếu ông cho câu trả lời của tôi là không đúng, và tôi là kẻ
câm."
Lâm Tế nhận xét,
"Ông là con vật! Tạo ra âm thanh mò, mò ông đã chứng tỏ rằng ông vẫn dùng
tâm trí con vật."
Trong Thiền, tâm trí là cái kế thừa của con vật, và chừng nào bạn còn chưa vượt ra ngoài tâm trí, bạn vẫn chưa là con người đích thực. Chỉ thân thể bạn là thân thể con người, nhưng tâm trí bạn là quá trình rất dài bốn triệu năm của con vật; nó chứa tất cả các con vật bạn đã trải qua. Bạn không phải là người mới tới, bạn già rồi, già như thời gian cuộc sống đã tồn tại trên trái đất này, và bạn đã trải qua tất cả các pha của con vật. Tâm thức của bạn mang một quá khứ mênh mông.
Cho nên khi Lâm Tế
nói, "Ông là con vật!" thì ông ấy không kết án ông này. Ông ấy đơn giản
phát biểu sự kiện rằng ông này vẫn dùng tâm trí con vật. Chỉ khi bạn ở trong trạng
thái vô trí bạn mới vượt ra ngoài con vật. Bạn vượt ra ngoài quá khứ của bạn, bạn
mở ra tới vũ trụ; bạn không còn đơn giản lặp lại sự kế thừa quá khứ. Kế thừa
quá khứ của bạn là kế thừa của tất cả các con vật.
Việc nói điều này của
ông ấy không phải là kết án; trong Thiền không có kết án. Mọi người có thể hiểu
lầm, nhưng ông ấy đơn giản nói rằng bạn đang dùng tâm trí con vật để hình dung
ra câu trả lời sẽ là gì. Tôi muốn bạn vượt ra ngoài tâm trí con người, vượt ra
ngoài tâm trí con vật, bởi vì vô trí là câu trả lời duy nhất cho mọi công án,
cho mọi câu hỏi, cho mọi việc truy tìm. Câu trả lời đơn giản - vô trí. Im lặng
tới mức không có một ý nghĩ nào hết cả.
Như vậy thì công án
gì cũng không thành vấn đề, câu trả lời là một: im lặng hoàn toàn, vượt ra
ngoài tâm trí con vật.
Một lần Lâm Tế hỏi một
ni cô, "Tới tốt hay tới tồi?"
Ni cô hét lên.
"Tiếp tục đi, tiếp
tục đi, nói nữa đi!" Lâm Tế kêu, vừa vớ lấy cái gậy. Ni cô lại hét lên lần
nữa. Lâm Tế đánh cô ấy.
Bây giờ, điều đó có vẻ
tuyệt đối ngớ ngẩn với bất kì ai đã được nuôi dưỡng theo giáo dục hợp lí. Điều
gì đang xảy ra ở đây? Một ni cô tới, Lâm Tế hỏi cô ấy, "Tới tốt hay tới tồi?"
Ni cô hét lên. Đó không phải là câu trả lời đúng.
Khi một người như Lâm
Tế hỏi, "Tới tốt hay tới tồi?", ông ấy đang nói rằng nếu bạn tới bằng
tâm trí, thì bạn tới tồi; nếu bạn tới bằng vô trí, bạn tới tốt. Chỉ vô trí mới
là tới tốt. Trong thế giới của Thiền, tâm trí là cái duy nhất phải bị vứt đi,
và thế thì bạn có toàn thể vũ trụ sẵn đấy. Bạn được toàn thể vũ trụ đón chào.
Chỉ bởi vì tâm trí của
mình mà bạn bị ở trong cũi. Bạn không được vũ trụ chấp nhận, bạn không được vũ
trụ mưa rào hoa lên bởi vì bạn là tù nhân của ý nghĩ riêng của bạn trong hộp sọ
nhỏ. Bạn là tù nhân, và tù nhân không thể được đón chào.
Lâm Tế đang nói,
"Cô có là tù nhân không, hay tôi phải đón chào cô như người tự do?" -
tự do với tâm trí.
Ni cô hét lên. Tiếng
hét của cô ấy không chỉ ra rằng cô ấy đã hiểu Lâm Tế. Đây là khó khăn - rằng
khi thời gian trôi qua mọi thứ đều trở thành truyền thống. Tiếng hét do Lâm Tế
phát minh ra, nhưng dần dần, dần dần nó lại trở thành câu trả lời truyền thống:
bất kì khi nào bạn thấy mình gặp khó khăn và bạn không thể trả lời được, bây giờ
bạn có câu trả lời truyền thống. Bạn có thể hét.
Nhưng tiếng hét không
áp dụng được vào mọi nơi. Đâu đó nó là có thể: nếu Lâm Tế đã hỏi cái gì đó vô
nghĩa, tiếng hét đúng lúc sẽ là câu trả lời đúng. Nhưng điều ông ấy đã hỏi có
nghĩa đến mức bạn không thể đáp ứng bằng tiếng hét được. Bạn phải đáp ứng bằng
im lặng. Bạn phải bầy tỏ vô trí của mình. Bạn phải bầy tỏ rằng bạn tới tốt, được
đón chào.
Cho dù ni cô đã
hét... "Tiếp tục đi, tiếp tục đi, nói nữa đi!" Lâm Tế kêu, vừa vớ lấy
cái gậy. Ni cô lại hét lên lần nữa. Cô ấy chỉ học thuộc lòng như vẹt.
Bạn có thể học bất kì
cái gì như vẹt, đó là khó khăn. Bạn có thể học triết lí lớn lao, bạn có thể học
thượng đế học, bạn có thể học các từ đẹp đẽ lớn lao và bạn có thể lặp lại chúng
mà thậm chí không biết đích xác ngụ ý của chúng.
Bây giờ, trong Thiền
điều này trở thành vấn đề. Khi hét hay đánh bằng gậy được coi là truyền thống,
nó mất đi mọi ý nghĩa. Ni cô hét lên; Lâm Tế đã không để ý tới điều đó. Ông ấy
nói, "Tiếp tục đi, tiếp tục đi, nói nữa đi! Cô đến tốt ở đây hay đến tồi?"
Ông ấy bỏ qua việc hét của cô ấy, ông ấy cho cô ấy một cơ hội khác.
Nhưng người đàn bà
này dường như ương ngạnh, không có khả năng học. Ni cô hét lên. Điều này là quá
đáng. Lâm Tế vớ lấy cái gậy của mình, nhưng đã không đánh cô ấy bởi vì cô ấy
không xứng với cú đánh. Cô ấy thậm chí không có khả năng hiểu một câu hỏi đơn
giản. Cô ấy chỉ học hét như nghi lễ. Cô ấy quá nghèo khi có liên quan tới tâm
thức, cô ấy không xứng với cú đánh từ con người như Lâm Tế.
Trong Thiền, khi thầy
đánh bạn, điều đó có nghĩa là thầy đang bầy tỏ tình yêu của mình, thầy đang bầy
tỏ sự chấp nhận của mình. Bằng việc đánh bạn thầy đang cho bạn một chỉ dẫn về sự
chấp thuận của mình. Đó là một loại chứng nhận. Các đệ tử lâu năm thường bị thầy
đánh. Đó là một thế giới rất khác mà Thiền đã tạo ra.
Trong thế giới thông
thường, nếu bạn đánh ai đó, bạn biết hoàn toàn rõ điều sẽ xảy ra. Nhưng trong
Thiền điều đó hoàn toàn khác. Thầy đánh chỉ khi có một người xứng đáng với việc
đó. Cú đánh và sự chấp thuận rất bí mật. Không người ngoài nào hiểu được cái gì
đang diễn ra. Điều đó không dành cho người ngoài; điều đó chỉ dành cho người
trong cuộc, rất ít người mới có thể hiểu.
Lâm Tế kêu, "Tiếp
tục đi, tiếp tục đi, nói nữa đi!" Nhưng cô ấy dường như rất ương ngạnh. Lần
này thì Lâm Tế phải đánh cô ấy, nhưng ông ấy đơn giản kêu lên, vớ lấy chiếc gậy
của mình...
Ni cô lại hét lên lần
nữa. Bây giờ điều này là quá thể. Lâm Tế đánh cô ấy - và cú đánh này không phải
là chấp thuận, cú đánh này để trị sự ương ngạnh của cô ấy.
Cho nên bạn nên nhớ rằng
trong Thiền mọi thứ đều linh hoạt. Nó không có nghĩa chắc chắn, cố định. Trong
những tình huống khác nhau nó có thể ngụ ý điều gì đó khác. Ông ấy đã tha thứ
việc hét của cô ấy nhưng cuối cùng ông ấy phải đánh cô ấy.
Lâm Tế đánh cô ấy. Đó
không phải là cú đánh chấp thuận, đó là cú đánh để phá tan sự ương ngạnh của cô
ấy và đưa cô ấy về ý thức của mình. "Chỉ hét lên thì cũng không ích gì. Ta
đang hỏi với cô, 'nói đi!' ta đang hỏi cô một câu hỏi trực tiếp: Cô có tới tốt
không? Cô có cho rằng cô xứng đáng được đón chào không? Thế thì bày tỏ điều đó
ra đi. Việc hét của cô không bày tỏ điều đó."
Ba lần ông ấy đã cho
cô ấy cơ hội, và chiếc gậy sau ba lần là việc không chấp thuận. Ông ấy đã đánh
cô ấy chỉ để đem cô ấy về với ý thức của mình. Có lẽ chiếc gậy ngay cả trong
hoàn cảnh như vậy có thể dừng việc nghĩ của cô ấy lại một khoảnh khắc. Hiển nhiên
điều đó sẽ diễn ra.
Cô ấy nghĩ mình đang
làm điều đúng: chính việc hét là do đích thân Lâm Tế phát minh ra. Ông ấy đã
đưa việc hét vào Thiền. Lâm Tế là người sáng lập ra việc hét, cho nên cô ấy phải
đã nghĩ rằng cô ấy đang làm điều đúng. Nhưng cô ấy không hiểu rằng việc hét có
thể đúng trong tình huống nào đó, sai trong tình huống khác. Ở đây, ông ấy đã
không đặt trước cô ấy công án nào. Câu hỏi của ông ấy rất đơn giản.
Ông ấy đang hỏi,
"Cô có tới tốt ở đây không? Cô có xứng đáng không, cô có cho rằng cô xứng
đáng không?" - bởi vì bạn không làm phí thời gian của người như Lâm Tế.
Trước hết bạn phải xứng đáng với nhóm của ông ấy, và cách duy nhất để xứng đáng
với nhóm của phật là im lặng, hoàn toàn im lặng. Chỉ hiện hữu. Nếu ni cô này
đơn giản chạm chân của Lâm Tế và ngồi xuống, đó sẽ là câu trả lời đúng. Nhưng
cô ấy đã bỏ lỡ.
Phương sách không phải
bao giờ cũng thành công. Trong cuộc sống không có chuyện một phương sách bao giờ
cũng thành công, bởi vì những người khác nhau cho hoàn cảnh khác nhau. Cùng
phương sách có thể có ích cho người này, và với người khác cùng phương sách đó
lại hoàn toàn thất bại.
Một dịp khác Lâm Tế hỏi
Lo'pu, "Mãi cho tới giờ đã trở thành tục lệ là với một số người thì dùng gậy
và với người khác thì cho tiếng hét.
Đã có những thầy đơn
giản bao giờ cũng dùng gậy, còn Lâm Tế đã đưa vào việc hét; đệ tử của ông ấy,
những người đã trở nên chứng ngộ đã dùng tiếng hét thay vì việc đánh. Mục đích
là như nhau. Tiếng hét cũng là cú đánh, nhưng rất tinh tế. Có lẽ nó đi sâu hơn
chiếc gậy. Chiếc gậy chỉ chạm vào da bạn, có thể đi sâu vào xương bạn; nhưng tiếng
hét có thể thấm vào chính bản thể bạn, bởi vì nó là lực vô hình. Chiếc gậy là
thứ vật chất, thông thường; nó có thể đánh vào thân thể nhưng nó không thể đánh
vào tâm thức.
Thế là ông ấy đang hỏi
Lo'pu, ""Mãi cho tới giờ đã trở thành tục lệ là với một số người thì
dùng gậy và với người khác thì cho tiếng hét. Cách nào tới gần trái tim của người
nhận hơn?" "Không cách nào," Lo'pu đáp ứng.
"Cái nào tới gần?"
Lâm Tế lại hỏi. Lo'pu hét. Trong tiếng hét ông ấy đang nói rằng tiếng hét tới gần.
Thầy đánh ông ấy. Đây
là cú đánh chấp nhận, của niềm vui lớn lao, bởi vì hét là phát minh của bản
thân Lâm Tế, và chắc chắn việc hét đi sâu hơn. Cho nên việc đánh này là của sự
chấp nhận lớn lao: Lo'pu, ông phải đấy.
Thiền có phương pháp
luận rất linh hoạt. Nó không cho những lời dạy bảo để các thế hệ tuân theo; nó
không cho những nguyên tắc tổng quát áp dụng được trong mọi tình huống cho mọi
người. Nó thân mật hơn và cá thể hơn.
Lâm Tế đã dùng việc
hét, nhưng sau ông ấy chỉ các đệ tử của ông ấy, những người đã chứng ngộ, mới
tiếp tục dùng. Cuối cùng điều đó biến mất. Chiếc gậy vẫn tiếp tục, bởi vì chiếc
gậy trực quan hơn, vật chất hơn, và chúng ta bao giờ cũng có khuynh hướng hiểu
vật chất dễ hơn phi vật chất. Tiếng hét là điều phi vật chất.
Lâm Tế đã cho một
phương cách vô cùng hữu hiệu, nhưng nó chỉ dành cho những người rất thông minh
biết sự khác biệt khi tiếng hét là của chấp thuận hay không chấp thuận. Ông ấy
cũng dùng gậy. Bây giờ Lo'pu đã hét, vì vậy cho ông ấy tiếng hét sẽ không phải.
Thầy đánh ông ấy. Ông ấy cần sự chấp thuận rõ ràng hơn rằng ông ấy đúng.
Thiền chưa bao giờ trở
thành tôn giáo của đa số và nó sẽ không bao giờ trở thành vậy. Nó bao giờ cũng
sẽ vẫn còn dành cho vài người được chọn lựa, cho những người hiếm hoi, chỉ bởi
vì nó không an ủi bạn bằng việc cho thuốc phiện, và nó không cho bạn hứa hẹn và
hi vọng về cuộc sống tương lai. Nó nhấn mạnh vào việc vẫn còn trong hiện tại. Đừng
đi lùi lại hoặc tiến lên, bởi vì khoảnh khắc hiện tại là khoảnh khắc duy nhất bạn
đang hiện hữu trong đó và sẽ trong đó. Bất kì khi nào bạn có đó, bạn đều trong
khoảnh khắc hiện tại.
Cho nên quá khứ là vô
nghĩa; không ích gì mà nghiên cứu kinh sách quá khứ. Tương lai là không liên
quan; không có nhu cầu bận tâm tới thiên đường và cõi trời. Có những luận giải
lớn lao được viết về những chi tiết như vậy...
Tôi đã đi vào một
ngôi đền và họ có ở đó một tấm bản đồ theo phóng chiếu của họ: đất ở giữa và rồi
bên dưới đất là địa ngục và phía trên đất là thiên đường - và điều đó chỉ ra
đích xác nơi Thượng đế sống trong thiên đường. Tôi đã hỏi tu sĩ người chỉ nó
cho tôi - và nó là tấm bản đồ cổ - "Ông có biết Timbuktu ở đâu
không?"
Ông ấy nói,
"Timbuktu à? Chưa bao giờ nghe nói tới nó."
Tôi nói, "Ông
không biết Timbuktu ở đâu à? Ông có biết Constantinople không?"
Ông ấy nói, "Ông
đang làm cho các cái tên này bật ra."
Tôi nói, "Tôi
không làm cho các cái tên này bật ra đâu. Ông không biết ngay cả trái đất này,
và ông cho rằng ông biết thiên đường và ông biết địa ngục sao? Dựa trên nền tảng
nào mà ông biết những điều này?"
Ông ấy nói, "Tôi
không biết. Đây là tấm bản đồ cũ. Nó là ngôi đền cổ đại."
Tôi hỏi ông ấy,
"Ai khác trong cả thành phố của ông, trong toàn thể cộng đồng của ông biết
không?"
Ông ấy nói, "Tôi
cũng không biết nữa, bởi vì tôi là tu sĩ, và nếu tôi không biết, thì không ai
biết cả. Nhưng chúng tôi tin..."
Và đó là nơi Thiền
tách khỏi mọi tôn giáo. Khoảnh khắc bạn nói, "Chúng tôi tin," thì bạn
trở thành không xứng đáng với bất kì từ bi Thiền nào. Bạn tự cắt mình khỏi đám
mây Thiền có thể mưa xuống và đem tiềm năng của bạn tới nở hoa.
Đừng bao giờ nói,
"Tôi tin." Đó là một trong những điều dối trá lớn nhất mà con người
đã bịa ra. Nếu bạn biết, nói, "Tôi biết." Nếu bạn không biết, nói,
"Tôi không biết." Tin tưởng không có chỗ chút nào trong sự tồn tại. Bạn
ngụ ý gì khi bạn nói, "Tôi tin"? Bạn đang nói, "Mặc dầu tôi
không biết, tôi cho rằng nó phải như vậy."
Nhưng thử điều đó
trong cuộc sống bình thường và thế rồi bạn sẽ hiểu. Bởi vì bạn đang dùng nó cho
những điều giả tưởng, nên không ai để ý tới nó. Bảo người đàn bà nào đó,
"Anh tin là anh yêu em," và cô ấy sẽ cho bạn cái tát đích đáng. Tin
sao? - hoặc bạn yêu cô ấy hoặc bạn không yêu cô ấy, nhưng điều đó nghĩa là gì,
"Anh tin..." hay có lẽ, "Anh tin rằng anh yêu em"? Bạn
không thể lừa được bất kì người đàn bà nào. Đàn bà mang tính trần tục thế.
Bây giờ ngay cả
Sardar Gurudayal Singh cũng cười. Anh ấy đã thử lừa đàn bà, nhưng không thành
công mấy. Nhìn vào khăn xếp của anh ấy - mầu cầu vồng đấy nhé! Nhưng thỉnh thoảng
anh ấy cũng thành công. Có vài kẻ ngốc bao quanh người mà không sannyasin muốn ở
cùng. Mọi người cho họ địa chỉ của Sardar Gurudayal Singh - và với những kẻ ngốc
này anh ta xoay xở tài lắm.
Mới vài ngày trước
đây một bức thư của một cô nàng ngốc tới nói rằng cô ấy đã trở nên chứng ngộ.
Tôi nói, "Điều đó là tốt! Bạn tới Sardar Gurudayal Singh đi. Đó mới là đúng
chỗ, và anh ấy là đúng người để cho bạn sự thừa nhận. Hoặc là bạn sẽ làm cho
anh ấy chứng ngộ hoặc là anh ấy sẽ làm cho bạn không chứng ngộ. Điều gì đó nhất
định phải xảy ra. Bạn cứ đi đi" - và tôi nghe nói rằng Sardar đã làm cho
cô ấy thành không chứng ngộ.
Cô ấy rất buồn rằng
cô ấy đã tới một người như vậy, người không coi chuyện gì là nghiêm chỉnh. Anh ấy
cười vào chứng ngộ của cô ấy, và tiếng cười của anh ấy đã tạo ra hoài nghi
trong cô ấy, "Ai mà biết được liệu mình có chứng ngộ hay không? Nếu Sardar
Gurudayal Singh mà cười..."
Bao giờ cũng có những
kẻ ngốc bao quanh. Họ trở nên chứng ngộ, họ trở nên không chứng ngộ - lên rồi
xuống. Một ngày nào đó họ chứng ngộ... Và bạn bao giờ cũng tìm được những kẻ ngốc
như vậy bao quanh Sardar Gurudayal Singh. Cho nên không cần phải thông báo cho
tôi. Bất kì khi nào bạn trở nên chứng ngộ, đi tới Sardar Gurudayal Singh!
Ikkyu đã viết:
Tôi gần như đánh mất tâm trí mình
giữa học tập và huấn luyện khắt khe.
Nhưng điều có giá trị nhất của cuộc sống
thực sự là bài ca của người đánh cá.
Dọc theo sông Hsiao,
Có mặt trời lặn và mưa,
Mây và trăng,
Điều ưu việt bên ngoài lời
Ca hát hết đêm nọ tới đêm kia.
Ikkyu là một trong những
nhà thơ haiku đáng yêu nhất, và bạn có thể cảm thấy tại sao ông ấy lại đáng yêu
nhiều thế. Ông ấy không phải là tay mơ, ông ấy là con người rất trần tục. Tôi gần
như đánh mất tâm trí mình giữa học tập và huấn luyện khắt khe. Nhưng điều có
giá trị nhất của cuộc sống thực sự là bài ca của người đánh cá.
Khi ông ấy nghe thấy
bài ca của người đánh cá gần Sông Hsiao... Ông ấy đang nói tới bài ca của người
đánh cá dọc theo Sông Hsiao là điều có giá trị nhất - còn giá trị hơn những
kinh sách linh thiêng, bởi vì bài ca của người đánh cá tự phát thế, chân thực
thế. Có mặt trời lặn và mưa, mây và trăng, điều ưu việt bên ngoài lời ca hát hết
đêm nọ tới đêm kia.
Haiku phải được quán
tưởng. Bạn quán tưởng dòng sông lớn Hsiao và đêm im lặng và người đánh cá đang
hát, đêm nọ tiếp đêm kia... và sau mỗi bài hát im lặng lại sâu sắc.
Những bài thơ này
không phải là thơ theo nghĩa thường, chúng mang tính tranh vẽ, miêu tả. Chúng
có mầu sắc, chúng có hình dạng, chúng gần như cảm thấy được. Bạn có thể nghe thấy
bài ca của người đánh cá, bạn có thể nghe thấy tiếng sóng của dòng sông Hsiao.
Đêm tiếp đêm... và trăng và mây và mưa và mặt trời lên và mặt trời lặn... tất cả
đều là bức tranh vẽ chứ không phải là thơ ca.
Đó là khác biệt giữa
thơ ca thường và haiku. Thơ ca thường là việc hợp lại từ lời. Haiku là hiện tượng
rất lạ: nó là bức tranh vẽ bằng lời - không trong mầu sắc, mà trong lời. Nó là
điều rất sống.
Maneesha đã hỏi:
Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,
Liệu có ích lợi gì cho những người trong chúng tôi đang cùng Thầy
cố gắng hiểu điều đang xảy ra trong vịêc thiền và trưởng thành của chúng tôi,
và để có khả năng nói ra nó? Hay chúng tôi chỉ cần quan sát?
Maneesha, bạn chỉ cần
quan sát thôi. Khoảnh khắc bạn bắt đầu nghĩ, "Điều gì đang xảy ra?"
tâm trí sẽ quay lại. Nếu bạn bắt đầu phân tích, tâm trí sẽ quay lại. Bất kì điều
gì bạn làm, ngoại trừ việc quan sát, tâm trí sẽ quay lại. Đó là kẻ thù duy nhất
cần phải tránh, và quan sát là chỗ trú ẩn duy nhất trong đó tâm trí không thể
vào được.
Câu hỏi của bạn là có
ý nghĩa. Người ta có khuynh hướng nghĩ, "Điều gì đang xảy ra?" và
phân tích nó. Nhưng người ta không nhận biết về sự kiện là trong nỗ lực này của
việc phân tích, tìm kiếm giải thích, tâm trí đã quay lại từ cửa sau. Bằng việc
quan sát, chúng ta đang cố gắng thoát khỏi tâm trí. Tất cả các hoạt động khác đều
thuộc về tâm trí.
Cho nên bạn chỉ cần
quan sát, bạn chỉ cần đi sâu vào quan sát nhiều nhất có thể được. Đi ngày một
sâu hơn tới mức độ là tâm trí bị bỏ lại sau, và chỉ nhân chứng thuần khiết có
đó. Đó là vàng ròng của bạn, đó là phật của bạn. Bây giờ là lúc của Sardar
Gurudayal Singh.
Mungo, một quí ông da
đen lớn, bước ra từ rừng rậm và vào thành phố Mĩ để tìm việc. Ông ấy nghe nói
có việc tại nhà máy địa phương, và đi tới đó để dự phỏng vấn.
"Ông có thể có
việc," ông chủ da trắng nói, "nhưng ông phải hiểu một điều: tôi không
muốn ông đem bất kì người bạn hay người thân nào tới đây. Tôi biết những người
rừng hoang như ông là gì. Công việc này chỉ dành cho ông thôi. Hiểu chứ?"
"Vâng, tôi hiểu,
thưa ông chủ!" Mungo nói. "Không bạn bè. Không họ hàng. Chỉ tôi, mình
tôi thôi!"
Sáng hôm sau, khi ông
ấy tới bắt đầu làm việc, Mungo bước qua cổng xưởng có dắt theo một người lùn da
đen nhỏ. "Này!" ông chủ quát lên, "Tôi nghĩ là tôi đã bảo ông rồi,
không họ hàng, không bạn bè cơ mà!"
"Nhưng thưa ông
chủ," Mungo lắp bắp, "anh ta không phải là bạn tôi hay họ hàng tôi -
anh ta là bữa trưa của tôi!"
Trong một làng nhỏ ở
miền nam Italia, Giovanni và Maria lấy nhau. Nhưng Giovanni sống trong một túp
lều tranh nhỏ với cả gia đình mình, cho nên đôi thanh niên phải qua đêm cưới ngủ
trong cùng phòng như mọi người khác.
Vào giữa đêm, Giovanni
và Maria bắt đầu làm tình, nhưng bỗng nhiên Maria kêu, "Ái! Giovanni, anh
làm đau quá!"
"Thực thế-a?"
Giovanni nói. "Thôi được, anh sẽ-a tới tủ và cho-a một chút dầu ô liu
vào-a đầu chim vậy."
Thế là anh ta đứng dậy,
bước qua bố, mẹ, chị, ông và bà, và cuối cùng tới tủ. Anh ta cho một ít dầu vào
chim và rồi trở lại với Maria.
Nhưng sau vài phút,
Maria lại kêu lên, "Ái! Giovanni, nhớ rằng em-a vẫn còn trinh! Anh làm đau
quá."
"Thôi được,"
Giovanni nói, "anh sẽ cho-a thêm ít dầu nữa vào chỗ đầu chim vậy." Thế
là anh ta trèo qua bố, mẹ, chị, ông và bà và đổ thêm dầu vào chim. Rồi anh ta
trở lại với Maria.
Nhưng cùng điều đó lại
xảy ra. Lần này, Giovanni đã trèo qua mọi người và tới tủ, thì bỗng nhiên ông của
anh ta ngồi dậy trên giường và quát, "Này, Maria! thoải mái-a với dầu đi!
Chúng ta sẽ dùng gì-a cho món salad ngày mai đây - chim của Giovanni chắc?"
Giáo hoàng Polack
đang làm cuộc hành hương Cơ đốc giáo về Mĩ, thì ông ấy bị lạc tại sân bay quốc
tế Rome. Ông ấy đi vơ vẩn quanh hành lang, đẩy chiếc xe kéo hành lí, và bằng
cách nào đó lên chuyến bay đi London.
Tới sân bay London với
chiếc áo choàng dài và chiếc mũ hình tên lửa, giáo hoàng Polack bước tới bàn nhập
cư, tại đó ông ấy được yêu cầu điền vào một tờ khai. Giáo hoàng chép mọi chi tiết
từ hộ chiếu Ba lan của mình và rồi trao tờ khai cho một viên chức.
"Có một phần cần
được làm đầy đủ," viên chức này nói, nhìn vào bộ quần áo kì lạ của Polack
và trỏ vào đoạn có đánh dấu 'sex'. "Ồ vâng!" Giáo hoàng Polack nói.
"Điều đó nên đọc là: hai lần một ngày."
"Thật thế
à?" viên chức này nói. "Nhưng tôi không muốn biết điều đó, điều tôi
muốn biết là: đàn ông hay đàn bà?"
"Ôi, tôi hiểu
ông muốn nói gì," giáo hoàng Polack nói, với việc nháy mắt. "Tôi
thích cả hai!"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)
Nivedano...
(tiếng trống)
Im lặng. Nhắm mắt lại
và cảm thấy thân thể hoàn toàn đông cứng. Bây giờ nhìn vào bên trong với toàn bộ
tâm thức của bạn với toàn bộ năng lượng sống của bạn và với sự khẩn thiết dường
như đây là khoảnh khắc cuối của cuộc đời bạn. Chỉ với sự khẩn thiết đó bạn mới
có thể đạt tới trung tâm của bản thể mình. Trung tâm của bản thể cũng là trung
tâm của của toàn thể vũ trụ. Tại trung tâm chúng ta tất cả là một. Chỉ chứng kiến
sâu sắc. Việc chứng kiến của bạn càng sâu... làm sương mờ biến mất và bạn có thể
thấy bản thân mình như phật. Kinh nghiệm về việc là phật là kinh nghiệm lớn nhất
trong cuộc sống. Bỗng nhiên từ khắp mọi nơi hoa bắt đầu mưa xuống, sự tồn tại
trở thành đáng yêu thế.
Trong im lặng này mọi
thứ trở thành điệu vũ. Ngay cả im lặng cũng trở thành bài ca. đi ngày một sâu
hơn... để cho mũi tên tâm thức của bạn xuyên thấu vào sâu nhất có thể được. Con
đường này nhỏ. Một chút ít dũng cảm và bỗng nhiên bạn ở tại trung tâm, thoát khỏi
thân thể, thoát khỏi tâm trí, bạn sẵn sàng biến mất vào trong vũ trụ. Là không
ai cả là phúc lạc lớn nhất.
Nivedano...
(tiếng trống)
Thảnh thơi, và chỉ biến
mất trong đại dương tâm thức đang bao quanh bạn. Chúng ta không là gì ngoài cá
trong đại dương. Khoảnh khắc này Thính phòng Phật đã trở thành chiếc hồ tâm thức
không gợn sóng nào. Niềm vui thế, an bình thế... và kinh nghiệm về bản thể bạn
là bất tử, vĩnh hằng. Bạn bao giờ cũng đều ở đây và bạn bao giờ cũng sẽ ở đây.
Chỉ có hai cách ở đây: một cách là trong tù túng, cách kia là trong tự do. Quan
sát đem bạn ra khỏi nhà tù và mở ra những cánh cửa của vô hạn.
Bạn không là thân thể,
bạn không là tâm trí. Bạn chỉ là tâm thức chứng kiến này. Đây là tự do của bạn.
Đây là mặt nguyên thủy của bạn. Đây là phật bạn đã từng tìm kiếm. Bạn phải mang
mọi kinh nghiệm này dần dần, dần dần tới chu vi của mình, tới cuộc sống thường
ngày của mình.
Trong những hoạt động
bình thường của bạn phật phải được diễn đạt. Trong tình yêu của bạn, trong các
mối quan hệ khác của bạn, trong bạn bè của bạn, tại bãi chợ, ngồi hay đi, nói
hay im lặng, bạn nên nhớ mình là phật.
Nivedano...
(tiếng trống)
Quay lại, nhưng đem tất
cả mọi thứ ở trung tâm ra chu vi. Quay lại như phật, duyên dáng, an bình, trong
im lặng tuyệt đối và bạn biết Thiền là gì. Việc đem phật ra bề mặt là toàn thể
khoa học của Thiền. Biến đổi mọi người thành mặt nguyên thuỷ của mình - đó là mặt
của phật - là công việc của tôi, và nó là công việc của bạn nữa. Chúng ta càng
có nhiều chư phật trên trái đất, trái đất càng được bảo vệ hơn khỏi các thế lực
huỷ diệt. Chúng ta càng có nhiều chư phật trên trái đất, thì nó sẽ càng trở nên
đẹp hơn.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy kính
yêu.
Xem Tiếp Chương 6 – Quay Về Mục Lục
Đọc Miễn Phí Sách Thiền - Download Sách Thiền PDF
Nghe Miễn Phí Sách Nói Thiền Hoặc Download ê
0 Đánh giá