Read more
(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)
Nam Tuyền (Nansen)
Điểm Khởi Hành – Osho
Bài Nói Về Thiền
Chương 7. Bạn Quên Mất Đôi Cánh
Nghe hoặc Tải MP3 'Nam Tuyền (Nansen) – Điểm Khởi Hành' ê
Osho ơi,
Có một lần, khi Hoàng Bá đang ngồi trong phòng khách của Nam Tuyền,
Nam Tuyền đã hỏi ông ấy, "Người ta nói rằng bản tính phật có thể được thấy
rõ ràng bởi những người nghiên cứu cả samadhi và prajna ngang nhau. Điều này
nghĩa là gì?"
Hoàng Bá trả lời, "Điều đó nghĩa là chúng ta không nên phụ
thuộc vào bất kì cái gì ở bất kì lúc nào."
Rồi Nam Tuyền lại hỏi, "Ta tự hỏi liệu ý kiến ông vừa bầy tỏ
có thực là ý kiến riêng của ông không."
"Tất nhiên là không!" Hoàng Bá nói.
Nam Tuyền lại nói, "Cứ gạt vấn đề trả tiền nước ra một chốc
đã, để ta hỏi ông định lấy tiền từ ai trả cho chiếc dép rơm này?"
Với câu hỏi này, Hoàng Bá chẳng trả lời.
Maneesha, mặc dầu
giai thoại này dường như rất đơn giản, nó không đơn giản vậy đâu. Trong vài lời
này một câu hỏi cực kì quan trọng đã được nêu ra. Và không may là đã chẳng ai
thảo luận về câu hỏi đó cho tới giờ. Tôi muốn đi vào chi tiết điều tôi định ngụ
ý.
Có một lần, khi Hoàng
Bá đang ngồi trong phòng khách của Nam Tuyền, Nam Tuyền đã hỏi ông ấy,
"Người ta nói rằng bản tính phật có thể được thấy rõ ràng bởi những người
nghiên cứu cả samadhi và prajna ngang nhau. Điều này nghĩa là gì?"
Trước khi chúng ta đi
vào câu trả lời của Hoàng Bá6, bạn phải hiểu ý nghĩa của samadhi (đại định) và
prajna (nhận biết). Đó là một câu hỏi rất rắc rối và phức tạp. Samadhi có thể
được hiểu bằng việc quan sát Ramakrishna. Điều đó sẽ cho bạn những dấu hiệu cơ
sở có thể được quan sát từ bên ngoài.
Ramakrishna hay đi
vào trong samadhi hàng giờ. Có lần trong sáu ngày ông ấy đã trong samadhi. Và
samadhi với ông ấy và với các người đi theo của ông ấy - và có một truyền thống
lớn từ Patanjali, cổ xưa năm nghìn năm, tin vào samadhi - nghĩa là trở thành vô
ý thức hoàn hảo. Với mọi người bên ngoài ông ấy gần như trong cơn mê; với nhà
tâm lí ông ấy đã đi sâu hơn vào trong các tầng vô ý thức của tâm trí. Và không
có cách nào đem ông ấy trở lại.
Một cách tự động, bất
kì khi nào tâm thức của ông ấy nổi lên bề mặt, ông ấy sẽ trở nên nhận biết. Và
bất kì khi nào ông ấy ra khỏi samadhi này, trạng thái vô ý thức sâu tựa cơn mê
này, ông ấy sẽ kêu khóc, "Sao các ông lại lôi ta ra khỏi cái đẹp vĩ đại
đó, phúc lạc lớn lao đó, im lặng lớn lao đó mà ta đang trải nghiệm. Thời gian
đã dừng lại, thế giới đã bị lãng quên, ta một mình và mọi thứ đều ở sự hoàn hảo
của nó. Cho nên tại sao các ông đã lấy nó đi mất?" Ông ấy đang hỏi câu hỏi
này với sự tồn tại. "Sao các ông không để cho tôi tiếp tục nó?"
Bây giờ, bản thân Phật
sẽ không coi điều đó là samadhi. Samadhi của ông ấy nghĩa là prajna, và prajna
nghĩa là nhận biết. Bạn phải trở nên ngày một ý thức hơn, không vô ý thức; chỉ
hai cực, samadhi (đại định) và prajna (nhận biết). Prajna là nhận biết hoàn hảo
về con người bạn. Còn samadhi trong trường hợp của Ramakrishna nghĩa là quên
lãng tuyệt đối. Không ai đã đi vào việc tìm kiếm sâu hơn về điều gì đích xác là
sự khác biệt sâu bên trong.
Cả hai đều nói tới
phúc lạc lớn, cả hai đều nói về vĩnh hằng, chân lí, cái đẹp, cái tinh tuý như
kinh nghiệm tối thượng của họ. Nhưng người hoàn toàn vô ý thức - bạn có thể chặt
tay người đó và người đó sẽ không biết - vô ý thức đến mức đó; còn Phật có ý thức
tới mức trước khi ngồi lên sàn, trước hết ông ấy sẽ nhìn để xem có con kiến hay
cái gì có thể bị giết chết bởi việc ngồi của ông ấy vào đó không. Trong mọi
hành động của mình ông ấy đều biểu lộ nhận biết mênh mông.
Tôi đã kể cho bạn câu
chuyện là một hôm đi qua một phố ở Vaishali, một con ruồi bay tới và đậu lên đầu
Phật. Ông ấy đang nói với Ananda về cái gì đó. Cho nên một cách tự động như
cách bạn vẫn làm, ông ấy đơn giản vẫy tay đuổi ruồi. Thế rồi ông ấy bỗng nhiên
dừng nói với Ananda và lại vẫy tay mình. Bây giờ thì không còn ruồi nữa rồi.
Ananda nói, "Thầy
làm gì vậy? Ruồi bay rồi còn đâu."
Ông ấy nói, "Con
ruồi ấy bay rồi, nhưng ta đã hành động một cách vô ý thức. Ta đã vẫy tay một
cách tự động như người máy. Ta đáng phải đưa tay với đầy nhận biết, ý thức."
Cho nên dường như có
hai cực. Cả hai đã trở thành một điểm tranh luận lớn xem ai là phải, bởi vì
kinh nghiệm họ nói tới là một. Kinh nghiệm riêng của tôi là ở chỗ tâm trí có thể
được bắt chéo từ cả hai đầu. Một phần mười tâm trí là ý thức, chín phần mười tâm
trí là vô ý thức. Nghĩ về tâm trí mà xem: tầng trên là ý thức và chín tầng khác
là vô ý thức. Bây giờ tâm trí có thể được đi qua từ cả hai đầu. Bạn không thể
đi qua từ giữa được, bạn sẽ phải đi tới đầu mút.
Ramakrishna đã đi qua
tâm trí bằng việc đi ngày một sâu hơn vào các tầng vô ý thức. Và khi tới tầng
vô ý thức cuối cùng, ông ấy nhảy ra khỏi tâm trí. Với thế giới bên ngoài ông ấy
có vẻ như đang trong cơn mê. Nhưng ông ấy đã đạt tới cùng bầu trời trong trẻo mặc
dầu ông ấy đã chọn con đường tối, tăm tối; ông ấy đã chọn phần đêm của ý thức.
Nhưng ông ấy đã đạt tới cùng một kinh nghiệm.
Phật chưa bao giờ trở
nên vô ý thức theo cách này. Ngay cả khi bước đi ông ấy cũng bước mọi bước một
cách hoàn toàn có ý thức và duyên dáng, mọi cử chỉ đều đầy ý thức, duyên dáng.
Ông ấy đã biến đổi ý thức của mình tới điểm các tầng vô ý thức bắt đầu trở
thành có ý thức. Chứng ngộ cuối cùng là khi tất cả các tầng vô ý thức của tâm
trí đã trở thành có ý thức. Ông ấy cũng nhảy ra ngoài tâm trí.
Cả samadhi và prajna
là trạng thái vô trí, đi ra ngoài tâm trí. Cho nên kinh nghiệm là như nhau
nhưng con đường là khác nhau, rất khác. Một con đường là con đường trắng đầy
ánh sáng mà Phật theo; một con đường là con đường tối mà Ramakrishna theo. Và
hiển nhiên là những người không thể hiểu được cả hai, những người đã không theo
cả hai con đường này và đi tới cùng kinh nghiệm, cứ tranh luận và thảo luận
không đến đích.
Người này sẽ nói rằng
samadhi của Ramakrishna là cơn mê, rằng ông ấy đã mất ý thức. Người khác sẽ nói
rằng bởi vì Phật chưa bao giờ đi vào samadhi như Ramakrishna, nên ông ấy không
biết về samadhi. Nhưng kinh nghiệm của tôi là, cả hai đều biết về samadhi, cả
hai đều biết về prajna. Ramakrishna trước hết biết tới samadhi và từ samadhi mà
prajna được sinh ra. Phật trước hết biết prajna và thế rồi từ prajna mà samadhi
được sinh ra. Vấn đề chỉ là hiểu biết rằng sự tồn tại bao giờ cũng mâu thuẫn,
được làm từ các cái đối lập - đêm và ngày, sống và chết.
Con đường của
Ramakrishna là của vô ý thức. Không ai đã xem xét một cách có chủ ý về điểm
này. Và con đường của Phật là của ánh sáng thuần khiết, của nhận biết liên tục.
Ngay cả trong giấc ngủ Phật cũng ngủ có ý thức.
Cho nên Nam Tuyền đã nêu
ra một câu hỏi rất có nghĩa.
"Người ta nói rằng
bản tính phật có thể được thấy rõ ràng bởi những người nghiên cứu cả samadhi và
prajna ngang nhau. Điều này nghĩa là gì?"
Hoàng Bá trả lời,
"Điều đó nghĩa là chúng ta không nên phụ thuộc vào bất kì cái gì ở bất kì
lúc nào."
Hoàng Bá không phải
là thầy, Hoàng Bá là học giả. Và câu hỏi này không thể được bất kì học giả nào
quyết định; không trí tuệ nào làm được, chỉ mỗi kinh nghiệm. Cho nên điều ông
ta trả lời là tuyệt đối không có liên quan. Ông ta nói, "Điều đó nghĩa là
chúng ta không nên phụ thuộc vào bất kì cái gì ở bất kì lúc nào." Bạn có
thể thấy có liên quan nào với câu hỏi này không? Nó chẳng liên quan gì với
samadhi cả, chẳng liên quan gì tới prajna cả. Ông ta không chỉ mà một thầy
giáo, mà còn là một thầy giáo mù. Câu hỏi này đã đi trên đầu ông ấy.
Rồi Nam Tuyền lại hỏi
- ngay lập tức, chỉ ra điều tôi đang nói đây - "Ta tự hỏi liệu ý kiến ông
vừa bầy tỏ có thực là ý kiến riêng của ông không." Bất kì ai cũng có thể
thấy rằng điều này ngu xuẩn thế, nó chẳng liên quan gì tới câu hỏi này cả. Ông
ta có thể đã nói, "Tôi không biết, tôi còn chưa kinh nghiệm cả samadhi lẫn
prajna. Tôi không biết liệu chúng kết thúc trong cùng một kinh nghiệm hay
không, cho nên tôi chẳng thể nói được gì." Điều đó chắc là thực thà nhất.
Nhưng nhìn vào câu trả lời của ông ta, Nam Tuyền lập tức hỏi, "Ta tự hỏi
liệu ý kiến ông vừa bầy tỏ có thực là ý kiến riêng của ông không." Ngay cả
cái ý kiến ngớ ngẩn này mà ông vừa diễn đạt ấy, ta nghĩ thậm chí ý kiến này
cũng chẳng phải của riêng ông." "Tất nhiên là không!" Hoàng Bá
nói.
Thấy tình huống này
ông ấy phải cảm thấy tốt hơn cả là nói rằng đây không phải là ý kiến của mình.
Nam Tuyền lại nói, "Cứ gạt vấn đề trả tiền nước ra một chốc đã... Nam Tuyền
sống trên đỉnh núi cao trong ba mươi năm. Đem nước lên chiều cao đó, ông ấy đã
phải đi hàng dặm đường xuống núi để đem nước lên. Với chúng ta điều đó có vẻ
như có chút ít kì lạ là ông ấy đã hỏi về giá nước. Ông ấy nói, "Cứ gạt vấn
đề trả tiền nước ra một chốc đã, để ta hỏi ông định lấy tiền từ ai trả cho chiếc
dép rơm này?"
Các thiền sư hay dùng
dép rơm, cùng hình dạng như chiếc dép của tôi, nhưng chúng được làm bằng rơm, rất
đẹp, rất thẩm mĩ và rất rẻ. Nam Tuyền đang nói, "Ai đã trả tiền cho chiếc
dép rơm của ông? Chúng trông mới thế. Ông không xứng với những chiếc dép rơm
này; chúng được đặc biệt ngụ ý cho các thiền sư. Và như đối với việc cho ông nước,
tôi sẽ không đòi hỏi gì về điều đó, nhưng nó đã bị phí hoài với người thậm chí
không biết tới samadhi là gì, prajna là gì, ấy vậy mà vẫn liều lĩnh và thần
kinh để đưa ra câu trả lời hoàn toàn không liên quan gì cả; mà ngay câu trả lời
đó nữa, cũng chẳng phải của riêng ông." Trạng thái vay mượn như vậy là
hoàn cảnh của tất cả các học giả, bác học, các giáo sĩ.
Nam Tuyền đã phơi bày
Hoàng Bá hoàn toàn tới chính cốt lõi bên trong nhất của con người ông ấy chỉ bằng
việc hỏi một câu hỏi nhỏ. Nhưng câu hỏi này lại không nhỏ, và nó là câu hỏi
không ai đã giải thích theo cách tôi đang nói cho các bạn, rằng những kinh nghiệm
này không phải là hai. Đúng ra, những con đường này dẫn tới những kinh nghiệm rất
khác nhau, những con đường mâu thuẫn.
Một con đường đi theo
bóng tối, đi ngày một sâu hơn vào trong bóng tối của tâm trí và vô thức, đạt tới
chính đầu cuối của tâm trí và nhảy ra khỏi nó. Và con đường kia cố gắng bằng đủ
mọi cách để làm cho vô thức cũng là ý thức. Và khi mọi thứ trở thành có ý thức
trong người đó, thì người đó cũng lấy bước nhảy.
Có lẽ phương pháp của
Phật khoa học hơn. Không có vấn đề đúng hay sai. Cả hai đều dẫn tới cùng không
gian, nhưng phương pháp của Phật về prajna - nhận biết - thì khoa học hơn theo
cách là bạn không thể bị lỡ được bởi vì bạn nhận biết. Con đường của
Ramakrishna là dò dẫm trong bóng tối. Ông ấy có thể đạt tới bình minh, ông ấy
có thể không đạt tới. Và một khi ông ấy đã đi vào trong vô ý thức, tất cả đều
là bóng tối, ông ấy không thể thấy mình đang đi đâu. Chỉ bởi ngẫu nhiên mà ông ấy
tìm ra cánh cửa thoát ra khỏi tâm trí, chỉ ngẫu nhiên mà thôi.
Khoa học không tin
vào ngẫu nhiên, nó phải là chắc chắn. Đó là lí do tại sao bạn sẽ không tìm thấy
nhiều Ramakrishnas trên thế giới, bởi vì chỉ ngẫu nhiên bằng việc dò dẫm trong
bóng tối bạn tìm ra cánh cửa và thoát ra ngoài tâm trí. Điều đó đã xảy ra cho
Ramakrishna nhưng bạn sẽ không thấy điều tương tự khác trong toàn bộ lịch sử
nhân loại.
Hàng nghìn nhà huyền
môn đã đạt tới cùng điểm đó. Nhưng họ tất cả đều đi theo con đường của prajna,
bởi vì khi bạn có ánh sáng cùng mình, bạn không cần dò dẫm. Khi bạn có ánh sáng
cùng mình, có tâm thức, giống như ngọn đuốc soi rọi con đường, việc đạt tới đích
của bạn có nhiều chắc chắn hơn.
Và một khi bạn đã biết
tới con đường đó rồi, điều đó rất dễ dàng. Chỉ lần đầu tiên bạn đi vào trong
cái không biết. Nhưng cái không biết không phải là bóng tối; bạn cầm ngọn đuốc
trong tay. Ramakrishna đi vào trong cái không biết mà không có ngọn đuốc nào.
Samadhi của Ramakrishna theo một cách nào đó là rất đặc biệt. Ông ấy mang kiểu
cách đó một mình. Ông ấy là loại người hiếm hoi đi vào trong chiều sâu của mình
mà không đem một ngọn nến nào theo. Nhiều khả năng hơn cả là bạn sẽ không tìm
ra cánh cửa.
Khi Phật được hỏi về
điều đó, ông ấy nói, "Có một lâu đài với một nghìn cửa ra vào; chỉ một cửa
là thực, phần còn lại là giả; chúng dường như cửa, nhưng khi các ông tới gần
chúng, chúng chỉ là cửa vẽ, có bức tường phẳng không lối vào.
"Một người mù bị
lạc trong lâu đài này. Anh ta dò dẫm đi quanh. Anh ta chạm vào nhiều cửa vẽ,
nhưng chúng không phải là cửa thực và lúc anh ta đi tới cửa thực, chỉ mỗi một cửa
thực, thì một con ruồi bay tới đậu lên đầu anh ta. Thế là anh ta trở nên phát rồ
khi xua đuổi nó đi và đi qua cửa đó."
Chín trăm chín mươi
chín cửa, và một vận may tới; vận may đó rất mỏng manh, nó có thể bị bỏ lỡ bởi
bất kì cái gì: đầu bạn bắt đầu ngứa ngáy hay bạn trở nên mệt mỏi quá vì việc dò
dẫm và sờ soạng tới mức bạn nói, "Lấy may thôi, bỏ béng cái cửa này đi, đi
tiếp."
Cho nên Phật nói,
"Con đường của ta không phải là dò dẫm như vậy. Trong lâu đài của ta tất cả
mọi cánh cửa đều thực. Và không cần phải dò dẫm bởi vì ta cho các ông đôi mắt của
thiền và ngọn đèn cháy sáng như ngọn lửa bên trong các ông, chính là cuộc sống
của các ông. Với ngọn đèn đó và im lặng của thiền các ông có thể tìm ra cánh cửa.
Có hàng nghìn cánh cửa, mọi cánh cửa đều có khả năng đưa các ông ra."
Tôi tuyệt đối chắc chắn
rằng Phật là đúng; điều đó không có nghĩa là Ramakrishna sai. Nhưng Ramakrishna
không thể là qui tắc được, ông ấy chỉ có thể là ngoại lệ. Phật đang trao cho mọi
người, không cho các ngoại lệ. Qui tắc phải dành cho mọi người. Bạn không thể
làm ra được qui tắc từ một ngoại lệ. Từ những người đi theo của Ramakrishna thậm
chí không có lấy một người đạt tới được samadhi. Nhưng những người đi theo của
Phật ngay cả ngày nay cũng vẫn tiếp tục như một dây chuyền, thầy tới đệ tử ở
nhiều nước khác nhau, vẫn đang đạt tới prajna. Dù bạn gọi nó là samadhi hay bạn
gọi nó là prajna, nó cũng là một mà thôi; nghĩa của cả hai từ này là trí huệ tối
thượng.
Các phật tử không tin
Ramakrishna đã chứng ngộ. Một sư phật giáo rất già... ông ấy là người Anh, và
khi ông ấy còn là đứa trẻ, bố ông ấy đã được bổ nhiệm và chức vụ nào đó ở
Kalimpong nơi đứa con được tiếp xúc với các thầy Phật giáo. Ông ấy trở thành phật
tử vào tuổi mười tám. Toàn bộ gia đình của ông ấy đều chống lại; họ là những
người Ki tô giáo và nói, "Con làm gì khi nghe các thầy Phật giáo đó?"
Ông ấy có thể thấy rằng
Ki tô giáo rất ngây thơ. Nó chẳng có gì nhiều để cho bạn. Bạn có thể làm được
gì ngay cả khi Jesus đã đi trên nước? Cho dù bạn có học đi trên nước, thì bạn
có thể đạt được tâm linh gì qua điều đó? Cho dù bạn có biến nước thành rượu, điều
là một tội lỗi, thì việc đó cũng chẳng giúp cho ai mang tính tâm linh cả. Cái
gì là giáo huấn của người Ki tô giáo có thể so sánh được với Phật Gautam? Không
ai tới gần ông ấy cả. Ông ấy chắc chắn là đỉnh Everest của rặng Himalayas.
Cho nên phật tử sẽ
không chấp nhận Ramakrishna là chứng ngộ. Nhưng khi nói với các sư Phật giáo và
đặc biệt là sư Anh này, tôi đã hỏi ông ta, "Ông đã bao giờ thử quên phương
pháp của Phật đi và để chút thời gian cho việc dùng phương pháp của Ramakrishna
chưa?"
Ông ấy nói,
"Không, tôi chưa bao giờ thử điều đó cả."
Tôi nói, "Thế
thì việc nói rằng Ramakrishna chưa bao giờ đạt tới samadhi là vượt ra ngoài giới
hạn của kinh nghiệm của ông."
Tôi đã thử cả hai con
đường, đi trên con đường của ánh sáng và đi trên con đường của bóng tối tuyệt đối.
Không ai làm điều đó bởi vì một khi bạn đã đạt tới con đường này, thế thì sao bạn
phải bận tâm về con đường kia? Bạn đã tới ga trong chiếc xe kéo tay, bây giờ bạn
định tới lại và thử đi taxi sao? Mọi người sẽ nghĩ bạn điên. Bạn đã đạt tới,
bây giờ không có nhu cầu để thử liệu chiếc taxi có tới ga hay không.
Nhưng tôi là người có
chút ít điên khùng. Thấy việc biện luận cứ kéo dài hàng thế kỉ, tôi quyết định
rằng cách duy nhất để đi tới kết luận là, đi theo cả hai con đường này: lúc này
đi theo con đường của ánh sáng và lúc khác đi theo con đường của bóng tối. Khi
tôi theo con đường của bóng tối, hầu hết bạn bè tôi, các thầy giáo của tôi đều
cho là tôi đã điên. "Cần gì làm thế nếu cậu đã đạt tới ánh sáng trong
ngày, cần gì tiếp tục đi trong đêm sau khi đã đạt tới?"
Tôi nói, "Có nhu
cầu bởi vì không có cách khác để kết luận liệu Ramakrishna có ở cùng trạng thái
tâm thức như Phật không."
Nhưng đã chẳng có Phật
tử nào thử mà cũng chẳng có đệ tử nào của Ramakrishna thử cả. Còn tôi không là
đệ tử của ai cả, tôi chỉ là người ngoài; tôi không thuộc vào bất kì tôn giáo
hay tổ chức nào. Nhưng đi tới một kết luận, thấy rằng trong hàng thế kỉ mọi người
đã thảo luận về nó, tôi không thể quan niệm được bằng cách nào điều đó có thể
được quyết định bởi lí luận; cách duy nhất để quyết định nó là đi theo cả hai
con đường.
Và bây giờ thiền mà tôi vẫn đang dạy cho các bạn là sự tổ hợp của cả hai con đường này. Thiền không chỉ tuỳ thuộc vào prajna, chỉ nhận biết; thiền cũng không chỉ là quên đi tất cả và nhấn chìm bản thân bạn vào nghỉ ngơi và bóng tối sâu sắc. Tôi đang dùng cả hai. Tôi đang bảo bạn quên đi thân thể, quên đi tâm trí, bạn không là những thứ này, nhưng gìn giữ ánh sáng của bạn sống động như một nhân chứng. Cho nên bạn đi cả hai con đường cùng nhau.
Không có vấn đề gì.
Trong thực tế điều đó còn có ý nghĩa hơn, bởi vì bạn sẽ đạt tới không gian mà
Ramakrishna đã đạt tới và không gian mà Phật đã đạt tới. Và bạn sẽ có tiếng cười
sảng khoái rằng trong hàng thế kỉ các học giả đã phí hoài không cần thiết thời
gian của họ. Thực nghiệm bao giờ cũng tốt bởi vì đây không phải là vấn đề triết
lí. Đây là vấn đề thực nghiệm bên trong; nó là khoa học như bất kì khoa học
nào.
Nhưng theo một cách rất
hay Nam Tuyền đã nói, "Cứ gạt vấn đề trả tiền nước ra một chốc đã, bởi vì
ta phải mang nước uống đi hàng dặm đường, để ta hỏi ông định lấy tiền từ ai trả
cho chiếc dép rơm này? Ai đã trả tiền cho chiếc dép rơm của ông? trả lại tiền đi.
Ông chỉ là một thầy giáo; đừng giả vờ là thầy. Với câu hỏi này, Hoàng Bá chẳng
trả lời.
Sekiso viết:
Chỉ một người chân thật xuất hiện trên thế giới
và tất cả mọi cái giả đều tan biến.
không cần lo nghĩ rằng con đường
của các tổ sư
dường như tàn lụi.
Thời nay chiếc rìu trí huệ của bạn
đã tìm được cánh.
Chắc chắn một ngày nào đó
nó sẽ cất cánh bay lên.
Cũng như khí hậu thay
đổi và mùa vụ thay đổi, kiểu sống của mọi người thay đổi, đối tượng và mục đích
của mọi người thay đổi. Cho nên thời gian đang diễn ra dường như là chúng ta đã
quên mất con đường của chư phật, Sekiso nói, nhưng không cần phải lo nghĩ. Cho
dù chỉ một người chân thật xuất hiện trên thế giới và tất cả mọi cái giả đều
tan biến. Đừng lo nghĩ.
Con đường cổ đại đã
tàn lụi. Bây giờ không ai nghĩ về việc kinh nghiệm samadhi hay prajna, không ai
nghĩ về việc đi vào cái ta của mình, trung tâm của mình, không ai thậm chí còn
bận tâm tới cách trở thành một với vũ trụ. Nhưng vẫn không có nhu cầu phải lo
nghĩ.
Thời nay chiếc rìu
trí huệ của bạn đã tìm được cánh. Chắc chắn một ngày nào đó nó sẽ cất cánh bay
lên. Không phải bao giờ trời cũng là đêm tối. Trời càng trở nên tối hơn thì nó
lại càng gần hơn tới bình minh. Bạn cũng sẽ bay trong cùng bầu trời của tự do
như chư phật cổ đại; được chuẩn bị để cho bạn không bỏ lỡ cơ hội này đi. Nếu bạn
đi tới tiếp xúc với một thầy, một người đích thực, thế thì đừng trì hoãn vì bất
kì lí do gì. Bất kì cái gì bạn nhận được từ thầy, để điều đó chìm vào trong bạn
sâu nhất có thể được. Chừng nào bạn còn có thể là một người bạn lữ hành, là người
bạn lữ hành đó đi, đừng đi lạc lối.
Mặc dầu không có nhiều
chư phật trên thế giới, chỉ một phật cũng có thể tạo ra hàng nghìn phật. Cho
nên Sekiso rất lạc quan: đêm tối đấy và ngày một tối hơn nhưng điều đó cũng có
nghĩa là bình minh đang tới gần hơn, và chẳng mấy chốc sẽ có mặt trời lên, và
hoa sẽ nở và chim sẽ bay.
Maneesha đã hỏi:
Osho ơi,
Chiếc rìu trí huệ của thấy có tìm thấy đôi cánh trong chúng tôi
không?
Tất cả các bạn đều có
cánh, các bạn chỉ phải được nhắc nhở. Bạn đã quên mất rằng bạn có cánh để đi
vào bầu trời bên trong và bay tới đỉnh cao nhất của tâm thức. Ai đó phải nhắc bạn
rằng bạn có cánh.
Bạn phải đã thấy - điều
đó cũng đáng để xem - khi con chim được sinh ra, nó không biết rằng nó có cánh.
Mẹ nó bay quanh cây và nó tự hỏi không biết nó có làm được điều đó hay không.
Nó chỉ nghêng ngó bên cạnh tổ, ngần ngại; điều đó có vẻ nguy hiểm: nếu nó ngã,
nó sẽ bị kết thúc. Nhưng mẹ nó đang bay, và mẹ nó bay với mục đích đặc biệt để
tạo ra niềm thôi thúc trong đứa con để bay. Và thế rồi nó bay sang cây khác và
từ cây khác đó nó cất tiếng gọi. Con chim nhỏ vẫy cánh, nhưng nó vẫn không thể
thu được dũng cảm; nó chưa bao giờ bay cả. Hiển nhiên nó sợ; nó chỉ mới ra khỏi
trứng. Nó chưa bao giờ biết tới tự do của bầu trời; bầu trời bao la thế còn nó
nhỏ bé thế. Nhưng mẹ đang gọi và có lẽ mẹ nó biết rõ hơn.
Vài con chim tỏ ra
dũng cảm và nhảy. Ban đầu điều ấy có vẻ có chút nguy hiểm, nhưng chẳng mấy chốc
chúng bắt đầu bay và sang tới cây kia. Những con chim khác thận trọng hơn cũng
vẫy đôi cánh của chúng và vẫn còn trong tổ; điều đó an toàn hơn. Mẹ gọi, điều đó
đúng, nhưng nguy hiểm. Thế rồi mẹ phải đẩy những con chim này vào bầu trời.
Một khi đã trong bầu
trời đôi cánh của chúng giang ra. Có vài khoảnh khắc lo nghĩ và căng thẳng,
cũng hệt như khi bạn học bơi vậy. Vài ngày đầu tiên điều đó là khó, bạn cần ai
đó giúp bạn, động viên bạn và bạn phải học trong vùng nước nông. Nhưng một khi
bạn đã học rồi, bạn có bao giờ nghĩ, bạn có thể quên bơi được không?
Một thầy giáo Nhật Bản
tin rằng mọi đứa trẻ đều biết bơi cũng như mọi con chim biết bay; chúng chỉ phải
được nhắc nhở. Cho nên ông ấy đã làm việc với trẻ con. Trước hết ông ấy bắt đầu
với đưa trẻ chín tháng tuổi và thành công. Thế rồi ông ấy bắt đầu với đứa trẻ
sáu tháng tuổi và thành công. Báo cáo cuối cùng là ông ấy đã thành công với đứa
trẻ ba tháng tuổi.
Bây giờ điều đó chứng
minh chắc chắn rằng việc bơi là cái gì đó bản năng. Bạn chỉ phải được động viên
và cho cơ hội. Và một khi đã được học rồi, làm sao bạn không quên nó? Mọi thứ
khác bạn có thể quên; địa lí, lịch sử, bạn có thể quên mọi thứ, nhưng bạn không
thể quên được việc bơi một khi bạn đã biết nó, bởi vì nó là bản năng của bản
tính của bạn. Chim không thể quên được việc bay một khi nó đã giang đôi cánh của
nó ra.
Nỗ lực của tôi là làm
cho bạn nhận biết rằng bạn có cánh. Và bầu trời sạch sẽ và trong trẻo đang chờ
đợi bạn lấy bước nhảy lượng tử, giang đôi cánh ra và đi tới đỉnh cao nhất của
tâm thức. Đó là điều tôi đã gọi là thiền.
Sardar Gurudayal
Singh đã đợi quá lâu rồi.
Cha Finger tới nhà thổ
và nói với bà chủ, "Tôi muốn ngủ với Sleazy Sally."
Bà chủ đi vào nói với
Sally và rồi trở ra nói, "Được đấy, nhưng cô ấy đòi hai trăm đô la."
"Nhưng hôm qua mới
chỉ năm mươi đô thôi!" Finger phản đối.
"Đồng ý hay là
ra đi tuỳ đấy," bà chủ nhún vai.
Thế là ông linh mục
trả tiền, và theo Sleazy Sally lên cầu thang.
Sau đó, cha Finger tụt
quần lót ra và hỏi cô gái, "Thế nào, tôi ra sao?"
Sally đáp, "Ông
là bạn tình tệ nhất mà tôi đã từng có trong đời. Và tôi đã bảo ông điều đó ngay
hôm qua rồi! Tôi không thể hiểu sao ông vẫn tới nữa!"
"Thế này,"
linh mục nói, "tôi chỉ muốn có ý kiến thứ hai!"
Đó là đêm Noel, và
gia đình Babblebrain đã mời Cha Fumble, linh mục địa phương, tới vui cùng họ. Họ
tất cả ngồi quanh bàn ăn sắp sửa bắt đầu bữa ăn tối Noel.
Bỗng nhiên, ông
Babblebrain vỗ tay lên mồm và buột ra tiếng hắt hơi khủng khiếp. Mọi người kinh
hãi khi họ thấy bụi đờm dãi bay ra từ mũi của ông ấy và phủ lên thức ăn đã chuẩn
bị đẹp đẽ. Có im lặng lạnh lùng, nhưng chẳng ai nói gì cả, trừ mỗi Cha Fumble,
lầm rầm cầu nguyện nhỏ.
Năm phút sau, ông lại
giữ chặt lấy mồm và bật ra tiếng hắt hơi rất to khác. Bụi đờm dãi mới lại phủ
lên đầy bàn làm mọi người đều kinh tởm và Cha Fumble làm dấu thánh giá.
"Ông ơi!"
Boris thì thào to với ông. "Xin ông che mũi lại khi ông hắt hơi."
"Được rồi,"
ông lầm bầm, "nếu đấy là điều các người muốn."
Lần thứ hai sau đó,
ông lại cảm thấy một cơn hắt hơi khủng khiếp khác đang kéo tới, nên lần này,
ông lấy tay giữ mũi lại.
Mọi người đều thấy
cơn hắt hơi sắp tới và họ nhắm mắt lại thấy trước. Ông hắt hơi bằng một tiếng nổ
to.
Khi mọi người mở mắt
ra, họ thấy một cảnh tượng kinh khủng. Đằng kia, cắm sâu trong bát khoai tây
nghiền nhừ vỡ toang là cái răng giả của ông!
Chàng thanh niên
Freddy Fallick mua một đôi giầy da sơn mầu đen, bóng loáng, anh ta đánh cho nó
bóng tới mức anh ta có thể thấy mặt mình phản xạ trong chúng. Đêm đó, Freddy đi
nhảy disco với đôi giầy mới.
Anh chàng thấy ba cô
gái ngồi cùng nhau tại một chiếc bàn, thế là anh chàng lại đó và mời một cô ra
nhảy. Họ nhảy với nhau một lúc thì Freddy nhìn xuống hình phản xạ trong đôi giầy
bóng loáng của mình và nói, "Anh thích cái xi líp đỏ của em lắm!"
Cô gái la lên sượng
sùng và chẳng mấy chốc Freddy đưa cô ấy trở về bàn. Rồi anh ta mời cô gái tiếp
ra nhảy.
Họ đã ra sàn được vài
phút thì Freddy nói, "Anh yêu cái xi líp đăng ten trắng của em lắm!"
Cô gái đỏ mặt và chạy
về với bạn mình. Ba cô gái kể cho nhau về điều xảy ra và cô thứ ba nói,
"Tí nữa anh chàng sẽ tới mời tớ nhảy đây, nhưng tớ đã có cách sửa cho anh
chàng."
Quả vậy, vài phút
sau, Freddy Fallick tới và mời cô ấy ra nhảy. Họ lên sàn nhảy và chẳng mấy chốc
Freddy lại nhìn xuống đôi giầy mình. Bỗng nhiên mặt anh ta lộ rõ vẻ lo lắng.
Anh ta cứ nhìn chằm chằm xuống, vào chiếc giầy này rồi lại nhìn sang chiếc kia.
"Nhìn giầy là
không tốt đâu nhé, Freddy," cô gái nói, tự cười khúc khích, "vì em đã
cởi quần lót ra rồi!"
"Ôi trời, nhờ trời
vì điều đó đấy!" Freddy nói nhẹ nhõm cả người. "Anh cứ tưởng đôi giầy
mới của anh bị rạn nứt rồi!"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)
(tiếng trống)
Im lặng. Nhắm mắt lại;
cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng. Bây giờ thu lấy tất cả mọi tâm thức
của bạn và nhìn vào bên trong với thôi thúc sâu sắc dường như đây là khoảng khắc
cuối cùng của cuộc đời bạn. Bạn phải đạt tới trung tâm.
Đi ngày một sâu hơn,
không sợ hãi gì, đi tiếp. Tại chính trung tâm của con người mình, bạn là phật.
Và việc kinh nghiệm phật như chính con người bạn là niềm vui tối thượng. Toàn bộ
cuộc sống của bạn trở thành bài thơ, bài ca, điệu nhạc, điệu vũ. Tất cả hoa
xung quanh bắt đầu nở ra.
Nhớ lấy kinh nghiệm
là phật này. Người ta không trở thành phật, người ta là phật. Chỉ có hai phương
án: hoặc bạn có thể quên điều đó hoặc bạn có thể nhớ điều đó. Những người quên
điều đó sống trong khổ sở, đau đớn, lo âu; những người nhớ tới điều đó, toàn bộ
cuộc sống của họ trở thành điệu vũ thiêng liêng.
Để làm cho điều đó
thành rõ ràng,
Nivedano...
(tiếng trống)
Thảnh thơi. Chỉ là
người quan sát thân thể và tâm trí. Bạn không phải làm gì cả. Bạn không phải
phán xét. Chỉ là nhân chứng thuần khiết như tấm gương. Đây là chính bản chất của
việc là phật, chỉ là tấm gương trống rỗng.
Thu lấy thật nhiều
hương thơm, thật nhiều ánh sáng, thật nhiều ân huệ nhất có thể được, bởi vì bạn
phải sống phật của mình hai mươi bốn tiếng một ngày.
Mọi khoảnh khắc bạn đều
phải nhớ và bạn phải hành động tương ứng với duyên dáng, với cái đẹp, với sáng
tỏ mà chỉ phật mới có thể có.
Tối nay đẹp theo cách
riêng của nó, nhưng bạn đã bổ sung thêm hàng nghìn ngôi sao cho nó, chỉ bởi việc
im lặng, chỉ bởi việc là nhân chứng; chỉ bởi vì việc là chư phật bạn đã làm cho
chỗ này trở thành nơi linh thiêng nhất trên thế giới.
Quan sát của các bạn,
chứng kiến của các bạn cuối cùng sẽ tan biến vào lẫn nhau. Không có một nghìn
hay mười nghìn chư phật trong thính phòng này. Chỉ có một đại dương phật tính.
Chúng ta tất cả chỉ là sóng của nó. Thật là thảnh thơi thế khi không hiện hữu,
thảnh thơi chỉ để là một phần của đại dương.
Trước khi Nivedano gọi
các bạn quay lại, nhìn vào nơi bạn đã tới, nhìn vào con đường bạn đã đi qua.
Con đường này sẽ được đi lại nhiều lần, đi đi rồi đi lại cho tới khi phật tính
của bạn phát triển từ trung tâm tới chu vi. Tại trung tâm nó là hạt mầm, tại
chu vi nó sẽ trở thành phật chính thức.
Nivedano...
(tiếng trống)
Bây giờ, quay lại.
Nhưng quay lại như chư phật, tràn đầy niềm vui mới, căn cước mới, tính cá nhân
mới.
Ngồi xuống trong vài
phút, nhớ lại rằng bạn là phật. Chính việc hồi tưởng này và toàn bộ cuộc sống của
bạn trải qua biến đổi. Và cả ngày bất kì khi nào bạn thấy nó, nhớ lấy.
Đôi khi bạn có thể
quên bởi vì thói quen cũ. Đừng cảm thấy buồn về điều đó, điều đó là tự nhiên.
Nhưng dần dần những khoảnh khắc của quên sẽ trở thành ít dần, và những khoảnh
khắc nhớ sẽ trở nên sâu sắc hơn, dài hơn; và cuối cùng một ngày sẽ tới khi toàn
thể cuộc sống của bạn trở thành không là gì ngoài việc nhớ lại niềm vinh quanh
lớn lao của bạn như phật.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội
mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, thưa Osho.
Xem Tiếp Chương 8 –
Quay Về Mục Lục
Đọc Miễn Phí Sách Thiền - Download Sách Thiền PDF
Nghe Miễn Phí Sách Nói Thiền Hoặc Download ê
0 Đánh giá